Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là những tác động của người hiệu trưởng trong việc huy động các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của hoạt động giáo dục kỹ năng sống là góp phần hình thành một nhân cách toàn diện.
1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1. Quản lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý, cụ thể như sau:
Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân(1989) có ghi: “Quản lý là phụ trách việc chăm nom và sắp đặt công việc trong một tổ chức” [16, tr.555].
Còn theo Nguyễn Ngọc Quang(1989), nhà sư phạm,người góp phần đổi mới lý luận dạy học, đã nêu về khái niệm quản lý trong tập bài giảng “Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục” như sau: “Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động để đạt được mục tiêu dự kiến” [22, tr.130]
Trần Kiểm (1997), trong giáo trình “ Quản lý giáo dục và trường học” dùng cho học viên cao học chuyên ngành Giáo dục học đã viết: “ Quản lý là nhằm phối hợp nổ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tưụ của xã hội” [ 15, tr.15]
Và cũng chính Nguyễn Ngọc Quang (1989), trong tác phẩm của mình đã nêu: “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tố chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định”.[22, tr.131]
Còn Nguyễn Bá Sơn (2000), trong tác phẩm “ Một số vấn đế cơ bản về khoa học quản lý” đã viết: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động” [ 23, tr.15]. Như vậy, có thể nói: Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực( nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức( chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất.
Tóm lại, quản lý là một khoa học vì nó nghiên cứu, phân tích về công việc quản lý, các quan hệ quản lý trong các tổ chức. Nó tổng quát hóa các kinh nghiêm tốt thành các nguyên tắc và lý thuyết áp dụng cho mọi hình thức quản lý tương tự. Nó cung cấp khái niệm cơ bản làm nền tảng cho việc nghiên cứu các môn học về quản lý. Để quản lý cho hiệu quả, nhà quản lý phải linh hoạt vận dụng các lý thuyết vào những tình huống cụ thể. Nó đòi hỏi sự khôn khéo tinh tế cao để đạt tới mục tiêu.Nghệ thuật này chủ yếu phải được học ngay trong thực tiễn.
1.2. Kỹ năng
Trong Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân (1989) có ghi:
“Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn” [16, tr.390].
Theo từ điển Giáo dục học: Kỹ năng là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy, cho dù đó là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ [17,220].
Như vậy, kỹ năng được hiểu là khả năng thực hiện những thao tác được hình thành và củng cố qua quá trình thực hành và trải nghiệm của bản thân. Kỹ năng chính là công cụ để gia tăng giá trị cho kiến thức bản thân.
1.3. Kỹ năng sống (life skills)
1.3.1. Khái niệm kỹ năng sống
Theo WHO (1993): Kỹ năng sống là năng lực tâm lý xã hội,là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội này [32].
Theo UNICEF (1995): Kỹ năng sống là khả năng phân tích tình huống và ứng xử, khả năng phân tích các ứng xử và khả năng tránh được các tình huống. Các kỹ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức “cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế “làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang tính chất xây dựng [32].
UNESO (2003) quan niệm: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày. Đó là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với tư cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hằng ngày [32].
Theo nhóm biên soạn tài liệu giáo dục kỹ năng sống của Vụ giáo dục thể chất mà chủ biên là Nguyễn Võ Kỳ Anh thì: “Kỹ năng sống là khả năng có được những hành vi thích nghi và tích cực, cho phép chúng ta xử trí một cách có hiệu quả các đòi hỏi và thử thách của cuộc sống thường ngày” ..[11, 3]
Phân tích các quan niệm trên cho thấy: quan niệm của WHO nhấn mạnh đến khả năng của cá nhân có thể duy trì trạng thái tinh thần và biết thích nghi tích cực khi tương tác với người khác và với môi trường của mình. Quan niệm này mang tính khái quát nhưng chưa thể hiện rõ các kỹ năng cụ thể. Quan niệm của UNESCO là quan niệm rất chi tiết, cụ thể, có nhấn mạnh thêm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ. Còn quan niệm của UNESCO nhấn mạnh rằng kỹ năng không hình thành, tồn tại một cách độc lập mà hình thành, tồn tại trong mối tương tác mật thiết có sự cân bằng với kiến thức và thái độ. Kỹ năng mà một con người có được phần lớn cũng nhờ có được kiến thức như là chúng ta muốn có kỹ năng thương lượng thì phải biết nội dung thương lượng. Việc đề cập thái độ cũng là một góc nhìn hữu ích vì thái độ có tác động mạnh mẽ đến kỹ năng, nếu ta luôn có thái độ kỳ thị thì sẽ không thực hiện tốt kỹ năng biết thể hiện sự tôn trọng với người khác.
Kỹ năng sống khuyến khích thái độ tích cực, phòng ngừa và giảm thiểu các hành vi nguy cơ. Nó giúp con người phát huy sức mạnh nội lực để có thể làm chủ được cuộc sống của mình và sống khỏe mạnh, hạnh phúc, có mục đích , có ý nghĩa.
Như vậy, có nhiều cách biểu đạt khái niệm kỹ năng sống với quan niệm rộng hẹp khác nhau tùy theo cách tiếp cận vấn đề. Trong đề tài này, tác giả dựa vào khái niệm của UNESCO để đưa ra khái niệm KNS vì theo tác giả khái niệm này phù hợp với việc nghiên cứu giáo dục KNS cho học sinh THCS trong nhà trường: “KNS là khả năng đáp ứng và đối phó với những nhu cầu, thách thức của cuộc sống hằng ngày của mỗi người, và là khả năng cần thiết đối với học sinh để các em có thể tự tin trong cuộc sống hàng ngày.”
1.3.2. Hệ thống kỹ năng sống
Theo quan niệm của tổ chức WHO, hệ thống các KNS cần được giáo dục cho người học gồm có:
Nhóm kỹ năng nhận thức bao gồm những kỹ năng cơ bản: tự nhận thức bản thân, tự đặt mục tiêu và xác định giá trị, kỹ năng tư duy, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề.
Nhóm kỹ năng liên quan đến cảm xúc bao gồm một số kỹ năng: kỹ năng nhận biết và chịu trách nhiệm về cảm xúc của mình, kỹ năng kiềm chế và kiểm soát được cảm xúc, kỹ năng tự giám sát – tự điều chỉnh cảm xúc của cá nhân.
Nhóm kỹ năng xã hội gồm các kỹ năng như: kỹ năng giao tiếp – truyền thông, kỹ năng cảm thông, kỹ năng chia sẻ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng gây thiện cảm, kỹ năng thích ứng cảm xúc của người khác.
Theo tổ chức UNESCO thì KNS phải được phân chia dựa trên những kỹ năng nền tảng cơ bản cũng như những kỹ năng chuyên biệt trong đời sống cá nhân của con người ở những mối quan hệ khác nhau cũng như ở những lĩnh vực khác nhau. Xuất phát từ đó, có thể có những nhóm kỹ năng sau:
Nhóm kỹ năng chung gồm những nhóm kỹ năng cơ bản mà mỗi cá nhân đều có thể thích ứng với cuộc sống chung: kỹ năng nhận thức, kỹ năng liên quan đến cảm xúc và các kỹ năng cơ bản về xã hội.
Nhóm kỹ năng chuyên biệt bao gồm một số KNS được thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: các kỹ năng về sức khỏe và dinh dưỡng, các kỹ năng liên quan đến giới và giới tính, các kỹ năng về vấn đề xã hội như rượu, ma túy, thuốc lá, HIV/AIDS, các kỹ năng liên quan đến môi trường thiên nhiên, các kỹ năng liên quan đến vấn đề bạo lực – rủi ro, các kỹ năng liên quan đến cuộc sống gia đình, các kỹ năng liên quan đến môi trường cộng đồng.
Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống và tự hoàn thiện mình, UNESCO phân loại KNS theo các mối quan hệ cá nhân với các nhóm KNS:
Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với chính mình: Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân, kỹ năng xây dựng mục tiêu cuộc sống, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc, đương đầu với căng thẳng.
Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác: kỹ năng quan hệ/tương tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp lực tiêu cực của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng giao tiếp có hiệu quả.
Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả: phân tích vấn đề, nhận thức thực tế, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, ứng xử, giải quyết vấn đề.
Tuy có sự khác biệt về quan niệm hệ thống KNS, nhưng các tổ chức UNESCO, WHO và UNICEF đã thống nhất mười KNS cơ bản, được xem như cần thiết nhất để giáo dục cho tất cả mọi người: kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tư duy phê phán/suy nghĩ có phán đoán, kỹ năng truyền thông có hiệu quả, kỹ năng giao tiếp giữa người với người, kỹ năng tự nhận thức bản thân, khả năng thấu cảm, kỹ năng ứng phó với cảm xúc, kỹ năng ứng phó với stress.
Trên đây chỉ là một số trong các cách hệ thống các KNS, các cách này chỉ là tương đối vì trên thực tế các KNS không hoàn toàn tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ đến nhau như: khi cần ra quyết định một cách phù hợp thì phải sử dụng kỹ năng nhận thức, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng xác định giá trị. Hoặc để có thể giao tiếp một cách có hiệu quả cần phối hợp kỹ năng nhận thức, kỹ năng thương lượng, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng cảm thông chia sẻ, kỹ năng kiềm chế, đương đầu với cảm xúc.
Việt Nam, dựa trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của quốc tế và thực trạng giáo dục KNS trong nước những năm qua, vào năm 2010 với sự hỗ trợ của tổ chức UNICEF Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ban hành tài liệu hướng dẫn tích hợp các KNS trong một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tài liệu này đề xuất hệ thống KNS cho học sinh trong các nhà trường phổ thông gồm 21 kỹ năng cơ bản và cần thiết: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng ứng phó với căng thẳng, kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng thương lượng, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định, kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng quản lí thời gian, kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin. Đồng thời, tài liệu này cũng nhấn mạnh các KNS cần được vận dụng linh hoạt tùy theo từng lứa tuổi, cấp học, môn học và điều kiện cụ thể như: đặc điểm vùng, miền, địa phương….
1.4. Giáo dục kỹ năng sống
Giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp học sinh có những kiến thức về cuộc sống, có những thao tác, hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ xã hội, giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn đồng thời thích ứng tốt nhất với môi trường sống.Việc giáo dục những kỹ năng cuộc sống chính là sự bổ sung về kiến thức và năng lực cần thiết cho các cá nhân thanh thiếu niên học sinh để họ có thể hoạt động độc lập và giúp họ chủ động tránh được những khó khăn trong thực tế đời sống.
Đối với học sinh, nhất là học sinh bậc trung học cơ sở, giáo dục kỹ năng sống là môn học trang bị những tri thức giúp học sinh hình thành những kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của con người với môi trường sống. Thông qua hoạt động Giáo dục kỹ năng sống sẽ trang bị thêm cho học sinh những kỹ năng tự chủ, kỹ năng từ chối, khả năng tự đưa ra quyết định và thích nghi, biết chấp nhận, hóa giải được những tác động tiêu cực trong cuộc sống chung quanh.
Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh thì Giáo dục kỹ năng sống là hoạt động giúp người học có khả năng về tâm lý xã hội để phán đoán và ra quyết định tích cực, nghĩa là để “nói không với cái xấu: [25,4]. Nhưng giáo dục KNS cho trẻ không phải là đưa ra những lời giải đơn giản cho những câu hỏi thông thường mà giáo dục KNS phải nhằm hướng đến thay đổi hành vi.
Giáo dục KNS cho học sinh là giáo dục những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp các em có thể chuyển tải những gì mình đã biết (nhận thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình quan tâm (giá trị) thành những khả năng thực thụ giúp học sinh biết làm gì và làm như thế nào (hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống [24,59].
Công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chỉ đạt được kết quả tốt khi nó có sự tác động đồng thời của các lực lượng giáo dục: Nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội.
Như vậy, giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp học sinh có những kiến thức về cuộc sống, có những thao tác, hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ xã hội như quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người chung quanh và của cá nhân với chính mình, giúp cho cá nhân mỗi học sinh được phát triển đúng đắn đồng thời thích ứng tốt với môi trường sống.
2. Cơ sở lý luận về giáo dục kỹ năng sống
2.1. Nhiệm vụ, vai trò và ý nghĩa của giáo dục kỹ năng sống
2.1.1. Nhiệm vụ của giáo dục kỹ năng sống
Xã hội hiện đại luôn đòi hỏi con người có những kỹ năng ứng phó trước những tình huống xảy ra trong cuộc sống nên việc rèn luyện cho học sinh các kỹ năng mềm là nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống. Điều này giúp trang bị cho các em những kiến thức giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp; từ đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong cuộc sống; tạo cơ hội cho các em có khả năng xử lý mọi vấn đề xảy ra trong sinh hoạt hàng ngày.
2.1.2. Vai trò của giáo dục kỹ năng sống
KNS giữ vai trò rất quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho mỗi con người nói chung và cho các em học sinh nói riêng, vì khoa học giáo dục ngày nay đã khẳng định mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển trong một xã hội công nghiệp, hiện đại… thì phải học, học không chỉ để có kiến thức, học để biết (Learn to Know), học để hành ( Learn to Do) mà còn học để tự khẳng định (Learn to Be), học để cùng chung sống (Learn to Live together).
2.1.3. Ý nghĩa của giáo dục kỹ năng sống
Xã hội hiện đại có sự thay đổi toàn diện về nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa,… và lối sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa phải ứng phó, đương đầu. Hoặc có những vấn đề đã xuất hiện trước đây, nhưng nó chưa phức tạp, khó khăn và đầy thách thức trong xã hội hiện đại, nên con người dễ hành động theo cảm tính và không tránh khỏi rủi ro, nguy cơ, thách thức trong cuộc sống. Khi đó, KNS chính là hành trang giúp con người chuyển những điều đã biết đến để thay đổi hành vi, nhờ đó mà đạt được lối sống lành mạnh, đảm bảo chất lượng cuộc sống, KNS là một phần quan trọng trong nhân cách con người trong xã hội hiện đại.
KNS góp phần thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội, ngăn ngừa các vấn đề xã hội, sức khỏe và bảo vệ quyền con người. Các cá nhân thiếu KNS là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Người có KNS sẽ thực hiện những hành vi mang tính xã hội tích cực, góp phần xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp và do vậy giảm bớt tệ nạn xã hội làm cho xã hội lành mạnh [14,16].
KNS là những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội cần thiết đối với thanh thiếu niên giúp họ có khả năng học tập tốt hơn, ứng xử một cách tự tin đồng thời là một phương sách để hoàn thiện bản thân mình trước mọi người. Đồng thời, KNS cũng giúp biến kiến thức thành những hành động cụ thể, những thói quen lành mạnh. Những người có KNS là những người biết làm cho mình và những người khác được hạnh phúc. Họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của họ.
2.2. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
Giáo dục kỹ năng sống ở bậc trung học cơ sở nhằm thực hiện mục tiêu sau: Chuyển dịch kiến thức (cái chúng ta biết), thái độ và giá trị (cái chúng ta nghĩ, cảm thấy hoặc tin tưởng) thành thao tác, hành động và thực hiện thuần thục các thao tác, hành động đó như khả năng thực tế (cái cần làm và cách thức làm nó) theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng ..
Nôi dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông tập trung vào các kỹ năng tâm lý – xã hội là những kỹ năng được vận dụng để tương tác với người khác và giải quyết có hiệu quả các vấn đề của cuộc sống. Việc hình thành các kỹ năng sống luôn gắn kết với việc hình thành các kỹ năng học tập và được vận dụng phù hợp với lứa tuổi, điều kiện sống,…
Theo giới hạn nghiên cứu đã trình bày ở trên, tác giả chỉ đi sâu phân tích nội dung của 14 kỹ năng tâm lý – xã hội cần thiết.
2.2.1. Kỹ năng tự nhận thức
Tự nhận thức là tự nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân. Kỹ năng tự nhận thức là khả năng của con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân: biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu… của bản thân; quan tâm và luôn ý thức được là mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Kỹ năng tự nhận thức là KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thông được với người khác. Để tự nhận thức đúng đắn, học sinh cần phải được trải nghiệm qua thực tế, qua giao tiếp với người khác, và phải có sự hiểu biết rõ về bản sắc dân tộc và nền văn hóa của nơi mà các em được sinh ra.
2.2.2. Kỹ năng xác định giá trị
Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức, chính kiến, thái độ và thậm chí là thành kiến. Giá trị cũng có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể thuộc các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, kinh tế… Giá trị chịu tác động của thời gian, kinh nghiệm sống, sự giáo dục của gia đình, môi trường xã hội mà người đó sống và làm việc.
Kỹ năng xác định giá trị là khả năng con người hiểu rõ được những giá trị bản thân, kỹ năng này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người đồng thời giúp cho con người biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin khác.
2.2.3. Kỹ năng thể hiện sự tự tin
Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể trở thành người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ.
Kỹ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống. Kỹ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng, ra quyết định và đảm nhận trách nhiệm.
2.2.4. Kỹ năng giao tiếp
Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Kỹ năng này giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; giúp mọi người có mối quan hệ tích cực với nhau; ngoài ra cũng giúp chúng ta kết thúc các mối quan hệ một cách xây dựng khi cần thiết. Kỹ năng giao tiếp giúp học sinh biết cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh khi học tập và sinh hoạt trong tập thể.
2.2.5. Kỹ năng lắng nghe tích cực
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kỹ năng giao tiếp. Người có kỹ năng này biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác, biết cho ý kiến phản hồi mà không vội vàng đánh giá, đồng thời đối đáp hợp lý trong quá trình giao tiếp.
Người có kỹ năng này luôn biết tôn trọng và quan tâm đến ý kiến của người khác nhờ đó họ hạn chế các bất đồng trong giao tiếp, việc thương lượng và hợp tác của họ đạt hiệu quả cao.
2.2.6. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông
Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể đặt mình trong hoàn cảnh của người khác giúp ta hiểu và chấp nhận người khác, qua đó có thể hiểu được cảm xúc, tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ.
Kỹ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp và ứng xử, cải thiện mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc biệt trong bối cảnh xã hội đa văn hóa, đa sắc tộc. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi thân thiện, gần gũi với người cần giúp đỡ.
2.2.7. Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn
Mâu thuẫn là những xung đột, tranh cãi, bất đồng, bất bình với một hay nhiều người về một vấn đề nào đó. Mâu thuẫn trong cuộc sống rất đa dạng và thường bắt nguồn từ sự khác nhau về quan điểm, chính kiến, lối sống, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa. Mâu thuẫn thường có ảnh hưởng tiêu cực tới các mối quan hệ. Mỗi người có cách giải quyết mâu thuẫn khác nhau tùy vào vốn hiểu biết, quan niệm, văn hóa và cách ứng xử cũng như khả năng phân tích tìm hiểu nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn.
Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn là khả năng con người nhận thức được những nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn và giải quyết nó một cách hòa bình. Yêu cầu trước hết của kỹ năng này là phải luôn kiềm chế cảm xúc, tránh bị kích động, nóng vội, bình tĩnh trước mọi tình huống trước khi tìm ra được cách giải quyết tốt nhất.
2.2.8. Kỹ năng hợp tác
Kỹ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm. Mỗi người đều có những điểm mạnh và hạn chế riêng, sự hợp tác trong công việc sẽ giúp hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể chất vượt qua khó khăn, đem lại chất lượng và hiệu quả cao hơn cho công việc chung. Kỹ năng này còn giúp mỗi cá nhân sống hài hòa với người khác.
Kỹ năng hợp tác giúp học sinh có thể hỗ trợ, hoàn thiện cho nhau để hoàn thành tốt các hoạt động học tập và hoạt động khác trong nhà trường. Ngoài ra, kỹ năng hợp tác còn giúp các em biết cách làm việc cùng nhau trong nhiều môi trường khác nhau khi trưởng thành.
2.2.9. Kỹ năng tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo giúp con người có khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo phương thức mới; là khả năng kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng; độc lập trong suy nghĩ.
Kỹ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi, có tầm nhìn và khả năng suy nghĩ rộng, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực tiếp đang trải qua.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên, do đó đòi hỏi mỗi người phải có tư duy sáng tạo để ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp. Đối với học sinh THCS, hoạt động chủ đạo của các em là học tập, việc rèn luyện kỹ năng tư duy sẽ làm cho các em năng động, có tầm nhìn và suy nghĩ sâu, và có nhiều sáng kiến trong việc học giúp các em đạt hiệu quả cao trong học tập.
2.2.10. Kỹ năng ra quyết định
Hàng ngày, mỗi người trong chúng ta đều phải đối mặt với những vấn đề cần giải quyết buộc chúng ta phải lựa chọn và ra quyết định
Kỹ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống một cách kịp thời, có hiệu quả đồng thời phải ý thức được những hậu quả trước khi ra quyết định từ sự lựa chọn của mình.
Kỹ năng ra quyết định giúp chúng ta tránh được những quyết định sai lầm hoặc chậm trễ gây ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của bản thân. Đây là một kỹ năng cần thiết cho cuộc sống của mỗi người vì ta không thể trông chờ, phụ thuộc vào người khác mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những người tin cậy trước khi ra quyết định…
2.3. Sự cần thiết cấp bách phải giáo dục kỹ năng sống
Xét từ góc độ xã hội
Sự hình thành và phát triển KNS trở thành một yêu cầu quan trọng của nhân cách con người trong xã hội hiện nay. Hội nghị giáo dục thế giới họp tại Senegan (2000) đã thông qua kế hoạch hành động giáo dục cho mọi người gồm có 6 mục tiêu lớn trong đó mục tiêu thứ 3 đã vạch ra rằng “Đảm bảo nhu cầu học tập của tất cả các thế hệ trẻ và người lớn được đáp ứng thông qua bình đẳng tiếp cận với các chương trình học tập và chương trình KNS thích hợp”. [37]
Mục tiêu này đặt ra yêu cầu của quốc gia đảm bảo cho người học được tiếp cận những chương trình KNS phù hợp. Mục tiêu thứ 6 của chương trình cũng khẳng định: Nâng cao toàn bộ các mặt của chất lượng giáo dục và đảm bảo có thể nhận rõ và đo được những kết quả đó về các kỹ năng cơ bản của KNS.
UNESCO đã xác định những lĩnh vực cần được quan tâm đặc biệt về giáo dục
KNS, bao gồm:
Liên quan đến việc làm: các chương trình giáo dục KNS trong giáo dục nghề nghiệp thường không tồn tại độc lập mà được tích hợp vào các chương trình dạy kỹ năng nghề nghiệp (chính quy hoặc không chính quy). Điều này cho phép thực hiện đồng thời 2 mục tiêu: một là để tăng cường cơ hội học tập, chuẩn bị cho cá nhân bước vào thế giới công việc bằng việc tạo cho họ đầu vào là các kỹ năng nghề nghiệp; hai là tăng cường tính hiệu quả và sự phù hợp của cá nhân với các kỹ năng nghề được đào tạo (có đáp ứng nhu cầu của thị trường không? Có đáp ứng đầy đủ mong muốn của cá nhân không? Có giúp nâng cao mức thu nhập của họ không? Có giảm những tổn thương/thiệt hại về kinh tế, xã hội của họ không?).
Liên quan đến sức khỏe, HIV/AIDS và lạm dụng ma túy: hội nghị Giáo dục thế giới đã nhận thức được nhu cầu cấp bách hiện nay là đấu tranh với đại dịch HIV/AIDS là 1 trong 15 nội dung của giáo dục vì sự phát triển bền vững. Một chương trình phòng tránh HIV tốt là nó có thể tạo ra sự thay đổi hành vi để làm giảm những nguy cơ của nhiễm HIV. Điều này càng đúng khi những chương trình này cung cấp các thông tin cơ bản và giúp thanh thiếu niên phát triển những kỹ năng sống cần thiết để đề ra quyết định và hành động theo những quyết định liên quan đến sức khỏe.
Liên quan đến xung đột và bạo lực: Giáo dục là trọng tâm của mọi chiến lược xây dựng hòa bình. Điều đó có nghĩa là thông qua giáo dục (chính quy và không chính quy) những cá nhân có được kiến thức, giá trị, thái độ và các kỹ năng sống cần thiết để xây dựng nền móng vững chắc cho lòng tôn trọng quyền con người, các nguyên tắc dân chủ và chống lại bạo lực, tội ác. Tiếp cận KNS tạo ra một mô hình mà mỗi người có thể phát triển các kỹ năng phân tích, tư duy phê phán, ra quyết định (học để biết): tự trọng, thiện chí, sáng tạo (học để tự khẳng định mình); giao tiếp sống với người khác, giải quyết xung đột, hợp tác và cam kết xã hội (học để chung sống với mọi người) giải quyết ổn thỏa đối với mọi việc khác nhau (học để làm).
Xét từ góc độ giáo dục
KNS của người học được xác định là một biểu hiện của chất lượng giáo dục. Vì thế, trong mục tiêu 6 của kế hoạch hành động Dakar về giáo dục cho mọi người, KNS được coi là một khía cạnh của chất lượng giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục cần tính đến những tiêu chí đánh giá KNS cho người học. Tổ chức giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường, xét cho cùng là để nâng cao chất lượng giáo dục.
Giáo dục KNS là thực hiện quan điểm hướng vào người học, một mặt đáp ứng nhu cầu của người học có năng lực để đáp ứng những thách thức của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Mặt khác, thực hiện giáo dục KNS thông qua những phương pháp hướng đến người học (lấy người học làm trung tâm) và phương pháp dạy học tương tác, cùng tham gia, đề cao vai trò tham gia chủ động, tự giác của người học và vai trò chủ đạo của người dạy sẽ có những tác động tích cực đối với những mối quan hệ người dạy và học, người học với người học. Đồng thời, người học cảm thấy họ được tham gia vào các vấn đề liên quan đến cuộc sống của bản thân, họ sẽ thích thú và học tập tích cực hơn.
Như vậy, giáo dục KNS cho người học, cụ thể là học sinh THCS đồng thời thể hiện tính khoa học và nhân văn của giáo dục.
Xét từ góc độ văn hóa, chính trị
Giáo dục KNS giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân được ghi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế. Giáo dục KNS giúp con người sống an toàn, lành mạnh và có chất lượng trong một xã hội hiện đại với văn hóa đa dạng và với nền kinh tế phát triển và thế giới được coi là mái nhà chung.
Xét theo yêu cầu của sự phát triển bền vững
Trong số 15 nội dung cơ bản về giáo dục vì sự phát triển bền vững đã được UNESCO xác định thì có rất nhiều nội dung thống nhất với giáo dục KNS để giải quyết các vấn đề cụ thể như: quyền con người, hòa bình và an ninh, bình đẳng giới, đa dạng văn hóa và hiểu biết về giao lưu văn hóa, sức khỏe, HIV/AIDS, các nội dung về bảo vệ môi trường, giảm nghèo, tinh thần và trách nhiệm tập thể. Đồng thời hình thành được những KNS cốt lõi như kỹ năng đặt mục tiêu: kỹ năng xác định giá trị; kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định giúp cho mỗi cá nhân có thể định hướng tới cuộc sống lành mạnh, phù hợp với các giá trị sống của xã hội, để có chất lượng cuộc sống và có những hành vi tích cực trong giải quyết các vấn đề của cuộc sống giúp thúc đẩy phát triển bền vững của cả cá nhân và của tập thể. Bên cạnh những kỹ năng sống sót cốt lõi trên, những kỹ năng sống chung như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, thiện chí, suy nghĩ tích cực còn được áp dụng vào giải quyết các nội dung cụ thể để tạo sự phát triển bền vững.
3. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống tại trường THCS
3.1. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là gì?
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là những tác động của người hiệu trưởng trong việc huy động các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của hoạt động giáo dục kỹ năng sống là góp phần hình thành một nhân cách toàn diện.
3.2. Chức năng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là một trong những chức năng quản lý của Hiệu trưởng trường THCS. Việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống có chức năng quản lý việc giáo dục hình thành ở học sinh một nhân cách toàn diện với những kỹ năng mềm cần thiết để các em có thể đối mặt và giải quyết hiệu quả những vấn đề khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.
3.3. Quy trình quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Quy trình quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cũng như quy trình quản lý hoạt động giáo dục ở các lĩnh vực khác. Để quản lý tốt hoạt động giáo dục kỹ năng sống, người hiệu trưởng cần tuân thủ các bước cơ bản của một quy trình quản lý giáo dục, đó là: xây dựng kế hoạch – chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất và nguồn nhân lực – tổ chức thực hiện – kiểm tra đánh giá – rút kinh nghiệm, tuyên dương-phê bình. Thực hiện tốt quy trình quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống sẽ giúp cho người hiệu trưởng thực hiện tốt chức năng quản lý giáo dục.
3.4. Tổ chức thực hiện quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Công tác tổ chức thực hiện quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là việc người hiệu trưởng cần làm khi triển khai hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường.
Người hiệu trưởng cần đảm bảo đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất để hoạt động giáo dục kỹ năng sống được diễn ra thuận lợi, ngoài ra việc giám sát kiểm tra để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp cũng sẽ góp phần tạo hiệu quả trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
3.5. Nội dung quản lý giáo dục kỹ năng sống ở trường THCS
3.5.1.Vai trò của Hiệu trưởng trong quản lý hoạt động nhà trường
Hiệu trưởng là người đứng đầu đơn vị trường học có nhiệm vụ:
– Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
– Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
– Quản lý GV, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại GV, nhân viên; thực hiện công tác khen thưởng, kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định của Nhà nước; quản lý hồ sơ tuyển dụng giáo viên, nhân viên;
– Quản lý HS và các hoạt động của HS do nhà trường tổ chức; xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại HS, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận hoàn thành chương trình Tiểu học vào học bạ HS tiểu học (nếu có) của trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết khen thưởng, kỷ luật học sinh theo quy định của bộ Giáo dục và Đào tạo;
– Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường;
– Thực hiện các chế độ của Nhà nước đối với GV, nhân viên, HS; tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường; thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường.
– Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật;
– Chịu trách nhiệm trước cấp trên về toàn bộ các nhiệm vụ được quy định
Trong nhà trường phổ thông : “Hiệu trưởng quản lý mọi hoạt động của nhà trường theo chế độ thủ trưởng” (điều 4 theo điều lệ nhà trường phổ thông). “Hiệu trưởng là người phụ trách cao nhất ở nhà trường, chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước nhân dân, trước cấp trên trực tiếp quản lý mình về mọi hoạt đông giáo dục của nhà trường” (Điều 2, Quyết định số 243 – CP ngày 28/6/1979 của Hội đồng chính phủ về tổ chức bộ máy biên chế của nhà trường phổ thông).
3.5.2. Đặc điểm của học sinh THCS
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở từ lớp 6 đến lớp 9 (lứa tuổi thiếu niên) là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11 đến 15, 16 tuổi. Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng các tên gọi khác nhau: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi bất trị”. Đây là lứa tuổi có bước phát triển nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn (người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt cho mọi mặt phát triển, thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức… của thời kỳ này.
lứa tuổi này có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con,vừa tính người lớn”, điều này phụ thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể, sự phát dục, điều kiện sống và hoạt động… của các em. Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn. Điều này do hoàn cảnh sống và các hoạt động khác nhau của các em tạo nên. Hoàn cảnh đó có cả hai mặt: mặt thứ nhất: những điểm yếu của hoàn cảnh kìm hãm sự phát triển tính người lớn là trẻ chỉ bận tâm vào việc học tập, không có nghĩa vụ khác, nhiều bậc cha mẹ có xu thế không để cho trẻ hoạt động, làm những công việc khác nhau của gia đình, của xã hội; mặt thứ hai: những yếu tố của hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn đó là sự gia tăng về thể chất, về giáo dục, nhiều bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp khó khăn trong đời sống, đòi hỏi trẻ phải lao động nhiều để sinh sống. Điều đó đưa đến trẻ sớm có tính độc lập, tự chủ hơn.
Phương hướng phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra theo các hướng như:
Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho các em hiểu biết nhiều, nhưng còn nhiều mặt khác nhau trong đời sống thì các em hiểu biết rất ít.
Có những em ít quan tâm đến việc học ở nhà trường, mà chỉ quan tâm đến những vấn đề làm thế nào cho phù hợp với “mốt”, “thời thượng”. Các em coi trọng việc giao tiếp với người lớn, với bạn lớn tuổi để bàn bạc, trao đổi với họ về các vấn đề trong cuộc sống để tỏ ra mình cũng như người lớn.
Ở một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài, nhưng thực tế đang cố gắng rèn luyện mình có những đức tính của người lớn như dũng cảm, tự chủ, độc lập, e ấp, dịu dàng… không còn quan hệ với bạn khác phái như trẻ con.
Mặc khác, các yếu tố tri giác, trí nhớ, chú ý, tư duy, tưởng tượng và ngôn ngữ lứa tuổi này có nhiều thay đổi đáng kể. Tiêu biểu là sự biến đổi trong tư duy, với sự chuyển dần từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng, làm cho khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, khả năng suy luận phát triển. Học sinh THCS thường muốn độc lập lĩnh hội tri thức theo quan điểm, lập luận riêng của mình và không dễ tin, dễ chấp nhận ý kiến người khác. Đồng thời, thích tìm hiểu những vấn đề phức tạp, khó khăn. Tuy nhiên, tư duy của các em cũng có một số hạn chế, như một em nắm bắt được dấu hiệu bề ngoài của khái niệm khoa học dễ hơn các dấu hiệu bản chất, các em hiểu dấu hiệu bản chất của khái niệm nhưng không phải lúc nào cũng phân biệt được các dấu hiệu đó,… Một số em, hoạt động nhận thức chưa trở thành hoạt động độc lập, sự kiên trì còn yếu.
Các em học sinh có thái độ khác nhau với từng môn học, tùy thuộc hứng thú, sở thích của bản thân, nội dung môn học và giáo viên giảng dạy. Hoạt động học tập lúc này cũng đa dạng hơn, nhiều hình thức sinh động hơn, các em thường thích những giờ học đa dạng phong phú. Tuy nhiên, hoạt động học tập của các em cũng gặp một số khó khăn như: yêu cầu khả năng tư duy trừu tượng, tư duy lý luận của các môn học; sự dậy thì làm cho tâm trạng của học sinh không ổn định, dễ mệt mỏi, chán nản; sự phân hóa trong học tập.
Sự hình thành và phát triển ý thức, tự ý thức là đặc điểm đặc trưng trong sự nghiệp phát triển nhân cách trong giai đoạn này. Sự biến đổi một cách mạnh mẽ của cơ thể và các mối quan hệ xã hội được mở rộng làm các em xuất hiện nhu cầu quan tâm đến nội tâm của mình, đến những phẩm chất riêng, xuất hiện nhu cầu tự đánh giá, so sánh mình với người khác. Nội tại quá trình phát triển ý thức, tự ý thức ở các em xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu tìm hiểu bản thân và kỹ năng chưa đầy đủ của các em trong việc phân tích tính đúng đắn hành vi bản thân. Do vậy, ở lứa tuổi này dễ nảy sinh xung đột từ mâu thuẫn giữa mức độ kỳ vọng của các em với địa vị thực tế của mình trong tập thể, mâu thuẫn giữa thái độ của các em đối với bản thân đang có sự hình thành phẩm chất nhân cách và thái độ của các em đối với người lớn và bạn bè cùng lứa tuổi.
Ý thức và tự ý thức của học sinh được hình thành bằng hai con đường. Thứ nhất là: lĩnh hội các yếu tố từ nền văn hóa, từ ý thức xã hội. Bằng các loại hình hoạt động đa dạng, bằng con đường giáo dục, học tập và giao tiếp xã hội, học sinh THCS lĩnh hội các giá trị xã hội, các chuẩn mực xã hội để hình thành ý thức, tự ý thức cá nhân. Thứ hai là tự giáo dục trong quá trình thực hiện các loại hình hoạt động trong cuộc sống giao tiếp.
Đặc điểm cảm xúc, tình cảm dễ nhận thấy nhất ở học sinh THCS là cường độ mạnh, theo hướng xung đột, quyết liệt (như phản ứng mạnh mẽ khi trong quan hệ với người khác không đạt được kết quả mong muốn). Trạng thái tâm lý nói chung chưa ổn định, thất thường, dễ vui, dễ buồn vô cớ, đôi khi còn mâu thuẫn. Những đặc điểm này mang tính chất tạm thời và sẽ qua đi theo sự trưởng thành của các em.
Tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ đang phát triển, những rung cảm về sự cảm phá, phát hiện cái mới liên quan đến nhu cầu nhận thức được mở rộng vượt ra khỏi phạm vi của trường, quan niệm về cái đẹp phong phú và sâu sắc hơn trước. Xúc cảm giới tính là một loại cảm xúc mới lạ xuất hiện lần đầu tiên ở học sinh THCS, những cảm xúc ấy được thể hiện đa dạng và mãnh liệt đôi khi khiến các em bỡ ngỡ, lúng túng và mất tự chủ. Nhìn chung, đời sống xúc cảm, tình cảm của học sinh giai đoạn này rất phức tạp và đa dạng, có tính thất thường, bồng bột song nó là nền tảng quan trọng cho việc hình thành nhân cách toàn vẹn cho các em.
Thời kỳ thiếu niên quan trọng ở chỗ: những cơ sở, phương thức chung của sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức của nhân cách được hình thành, chúng sẽ được tiếp tục phát triển trong tuổi thanh niên. Hiểu rõ vị trí, ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý thiếu niên sẽ giúp được những người làm công tác giáo dục có cách giáo dục đúng đắn để giáo dục toàn diện cho các em.
3.5.3. Việc xây dựng chương trình kế hoạch
Hiệu trưởng quản lý chỉ đạo công tác giáo dục kỹ năng sống thông qua công tác xây dựng kế hoạch giáo dục:
Việc xây dựng kế hoạch là một công đoạn không thể thiếu được trong quản lý bất kì một công tác nào của người hiệu trưởng. Có xây dựng kế hoạch, người hiệu trưởng mới xác định được mục tiêu sẽ đạt đến, các biện pháp thực hiện, thời gian tiến hành và hoàn thành, chỉ tiêu cần đạt,… Tránh trường hợp được chăng hay chớ, tới đâu hay tới đó.
Để việc xây dựng kế hoạch giáo dục được tốt, người hiệu trưởng phải dựa trên cơ sở tình hình cụ thể của học sinh, của đội ngũ giáo viên trường mình trong năm học, của địa phương mà trường đóng để định ra nội dung, yêu cầu, biện pháp cho thích hợp. Việc nắm tình hình thực tế đội ngũ giáo viên và học sinh, phải bao gồm tình hình có tính chất thường xuyên, lâu dài, phổ biến và tình hình có tính chất thời sự, tình hình cá biệt, có thể ảnh hưởng tiêu cực ít nhiều đối với tập thể học sinh trường
3.5.4. Nội dung
Hiệu trưởng quản lý chỉ đạo thực hiện mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho HS : Cũng như tất cả các hoạt động giáo dục khác, để thực hiện đạt hiệu quả công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, người hiệu trưởng phải quản lý chỉ đạo việc thực hiện mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống, đó là: “Chuyển dịch kiến thức, thái độ và giá trị thành thao tác, hành động và thực hiện thuần thục các thao tác, hành động đó như khả năng thực tế theo xu hướng tích cực và mang tính chức xây dựng”. Muốn vậy, người hiệu trưởng phải đảm bảo việc chỉ đạo thực hiện một số nguyên tắc sau:
– Giáo dục học sinh qua thực tiễn sinh động của xã hội: Nguyên tắc này đòi hỏi nhà trường phải gắn liền với đời sống thực tiễn của xã hội, của cả nước và địa phương, phải nhạy bén với tình hình chuyển biến của địa phương và cả nước, đưa những thực tiễn đó vào những giờ lên lớp, vào những hoạt động của nhà trường để giáo dục các em học sinh
– Giáo dục theo nguyên tắc tập thể: Nguyên tắc này thể hiện ở cả 3 nội dung: Hướng dẫn, dìu dắt học sinh trong sinh hoạt tập thể; Giáo dục học sinh tinh thần vì tập thể. Bởi vì tập thể ở đây có vai trò làm nảy nở, khuyến khích các phẩm chất tốt đẹp như tinh thần tập thể, tính tổ chức kỹ luật, tình đồng chí và tình bạn, tinh thần hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, tính khiêm tốn học hỏi mọi người,… nó phát huy và có tác dụng điều chỉnh những động cơ kích thích bên trong góp phần rất lớn vào việc giáo dục kỹ năng sống cũng như việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
– Giáo dục kỹ năng sống phải phối hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh và đặc điểm hoàn cảnh cá nhân học sinh: Đối với học sinh trung học cơ sở, là lứa học sinh có đặc điểm quá độ, phức tạp và nhiều mâu thuẫn trong sự phát triển tâm lý cũng như sinh lý lứa tuổi. Các em dễ vui, dễ buồn, dễ hăng say, dễ chán nản, muốn hiểu biết nhiều và làm nhiều việc lớn nhưng vì khả năng còn hạn chế nên dễ nảy sinh mâu thuẫn giữa ước mơ và năng lực. Do đó, công tác giáo dục kỹ năng sống cần phải chú ý những đặc điểm đó đồng thời chú ý đến cá tính, giới tính của các em để có hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục phong phú, sinh động cũng như có phương pháp giáo dục thích hợp.
Hiệu trưởng quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống thông qua công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và quản lý tốt các hoạt động trường, lớp
Bằng nhiều hình thức và nhiều biện pháp, người hiệu trưởng cần làm cho tập thể sư phạm của nhà trường nhận thức được rằng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là công tác cấp thiết, cần tiến hành thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc, mọi nơi, trong tất cả các hoạt động đều có thể và phải thực hiện yêu cầu này. Một giờ dạy trên lớp không chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức khoa học cho học sinh mà còn là dịp để giáo viên rèn cho học sinh các thao tác, kỹ năng học tập, ứng xử, giáo dục cho các em những hành vi, cử chỉ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn,.. như: trong một giờ tập thể dục không chỉ yêu cầu học sinh biết kỹ thuật động tác mà còn yêu cầu các em phải rèn luyện được ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, thao tác linh hoạt để rèn luyện phát triển thể chất tự bảo vệ bản thân tránh được bệnh tật… Với những bài dạy thuộc các môn khoa học xã hội có khả năng rất phong phú trong việc giáo dục những nhận thức chính trị đúng đắn, những tình cảm đạo đức tốt như: tình yêu quê hương đất nước, yêu lao động, lòng tự hào dân tộc, lòng căm ghét bọn cướp nước, bán nước, … “chuẩn bị cho các em một cuộc sống có trách nhiệm trong một xã hội tự do, với tinh thần hiểu biết, hóa bình, khả năng dung thứ, bình đẳng về giới tính, và hữu nghị, …” theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em rất phù hợp với mục tiêu giáo dục kỹ năng sống. Còn những bài học về các môn tự nhiên lại có khả năng giáo dục cho học sinh lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, tác phong khoa học, tính chính xác, tính cần cù, kiên trì, nhẫn nại, lòng ham thích khoa học, chống mê tín dị đoan, … những kỹ năng tính toán, tư duy phân tích, phê phán, kỹ năng giải quyết vấn đề, …
Nói chung, nhiều bài giảng nếu được dạy tốt theo nghĩa đầy đủ là: đảm bảo tính chính xác khoa học, có hệ thống, có trọng tâm và dạy với cả lương tâm người thầy thì tự bản thân những giờ lên lớp đó đã mang tính giáo dục cao, đạt được hiệu quả ở cả ba thành tố của học vấn, đó là: kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Tuy nhiên người hiệu trưởng cũng cần lưu ý giáo viên tránh lối giáo dục kỹ năng sống một cách đơn giản, lý thuyết sáo rỗng, gượng ép hoặc đơn điệu, … bởi sẽ kém hiệu quả, mất đi tác dụng giáo dục vì bản thân các kỹ năng sống là khả năng ứng xử theo những cách nhất định trong một môi trường cụ thể phù hợp với các giới hạn về kinh tế, xã hội và văn hóa mà người ta sống; giáo dục kỹ năng sống phải là hoạt động sinh động bổ sung cho các cá nhân thanh thiếu niên học sinh về kiến thức và năng lực cần thiết để họ có thể hoạt động độc lập và giúp họ chủ động tránh được những khó khăn trong thực tế đời sống.
Hiệu trưởng quản lý công tác giáo dục kĩ năng sống thông qua lao động, qua các hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài lên lớp, hoạt động đoàn thể, xã hội và sinh hoạt tập thể:
Hoạt động lao động, hoạt động học tập ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động đoàn thể, xã hội và sinh hoạt tập thể, … là những hoạt động có nhiều thuận lợi để giáo dục, rèn luyện học sinh các kỹ năng sống trong thực tế, có tác dụng trực tiếp đến việc giáo dục tư tưởng, giáo dục nhận thức, thái độ cho học sinh. Thông qua những hoạt động này sẽ rèn luyện cho các em những thao tác, kỹ năng, thói quen, hành vi tốt.
3.5.5. Quy trình tổ chức
Người hiệu trưởng phải có kế hoạch cụ thể, cân đối; phải quan tâm tổ chức tốt đối với các hoạt động này.
Hiệu trưởng tổ chức, xây dựng các lực lượng và điều kiện giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh:
Một đặc điểm quan trọng của công tác giáo dục học sinh là giáo dục thông qua nêu gương có tính thuyết phục cao. Công tác giáo dục cho học sinh là công việc và trách nhiệm của mỗi giáo viên, của toàn bộ các thành viên trong nhà trường chứ không phải là của riêng giáo viên chủ nhiệm hay một vài giáo viên nào. Do đó, để làm tròn trách nhiệm này thì trước hết mỗi thầy cô giáo phải là người thể hiện tốt những mẫu mực về nhân cách, về các kỹ năng nhất là kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp ứng xử, …
Hiệu trưởng phải giúp cho giáo viên nhận thức rõ trách nhiệm nặng nề nhưng vẻ vang của mình là đào tạo con người, để giáo viên phải thương yêu học sinh thật sự, phải có ý thức trách nhiệm về mọi hành vi, ngôn ngữ, cử chỉ của mình đối với học sinh, bản thân thầy cô phải là tấm gương cho học sinh noi theo, phải tin tưởng, tôn trọng học sinh thì mới có thể giáo dục tốt được. Muốn vậy, người hiệu trưởng phải chú trọng công tác bồi dưỡng, phải tổ chức làm sao cho tập thể giáo viên trong trường gương mẫu về mọi mặt, đoàn kết nhất trí thành một khối thống nhất có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với học sinh. Vì một trong những nguyên tắc giáo dục là: phải thống nhất mọi ảnh hưởng giáo dục ngay trong nhà trường, tránh tình trạng “ ông nói gà, bà nói vịt”, người quan tâm, kẻ thờ ơ …
Ngoài ra, người hiệu trưởng cũng cần phải lưu ý đến việc tạo những điều kiện phương tiện cần thiết để các em thực hiện những yêu cầu, những thao tác, kỹ năng do nhà trường đề ra cho các em, tránh việc nhà trường chỉ biết yêu cầu này đến yêu cầu khác mà không xây dựng, không tạo điều kiện, phương tiện để thực hiện những yêu cầu đó.
Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh:
Nhà trường cần phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh, các tổ chức đoàn thể xã hội và cá nhân nhằm: tạo mối quan hệ gắn kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội để thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội; huy động mọi lực lượng của cộng đồng chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, góp phần xây dựng cơ sở vật chất nhà trường.
Bên cạnh đó, nhà trường phải làm sao xứng đáng là trung tâm giáo dục của địa phương, phải làm sao để địa phương đồng tình ủng hộ, kết hợp với nhà trường nhằm mục đích chung là: giáo dục con em nên người.
Hiệu trưởng quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống thông qua chỉ đạo xây dựng môi trường giáo dục tốt để giáo dục học sinh :
Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục học sinh: cảnh quan sư phạm. “Làm sao để trường ra trường, lớp ra lớp” và tự nhà trường đúng nghĩa của nó đã mang yếu tố giáo dục.
Dù trong hoàn cảnh nào, hiệu trưởng cũng cần tổ chức, sắp xếp tu sửa, tô điểm bộ mặt vật chất, khung cảnh của nhà trường, làm sao cho toàn bộ khung cảnh của nhà trường toát lên ý nghĩa giáo dục đối với học sinh. Ngoài khung cảnh vật chất, hiệu trưởng cần tạo ra một bầu không khí giáo dục trong toàn trường và ở mỗi lớp học, hình thành nên một phong cách sinh hoạt của nhà trường, biểu hiện ở những nề nếp tốt như trật tự, vệ sinh, ngăn nắp, nghiêm túc. Có dư luận tập thể tốt, ủng hộ cái tốt, cái tiến bộ, phê phán cái sai, cái lạc hậu, có phong trào thi đua sôi nổi và đúng thực chất. Và có quan hệ tốt giữa các thành viên trong trường như giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học sinh với nhau.
Trong các mối quan hệ phải thật sự đúng mực, hài hòa; giáo viên thương yêu tôn trọng học sinh, không đánh đập, xỉ vả, mỉa mai, chế giễu, áp bức, dọa nạt, thiên vị hay thành kiến. Học sinh không hỗn xược, không khúm núm sợ sệt mà thật lòng yêu kính, tin tưởng thầy cô. Học sinh đối với nhau thì đoàn kết, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, không kèn cựa, so bì, thù hằn, bè cánh, không đánh, cãi nhau, không nói tục chửi bậy. Với một bầu không khí như vậy, sẽ có tác dụng hết sức tích cực đến việc hình thành các kỹ năng cần thiết trong học tập, trong các mối quan hệ, trong giao tiếp ứng xử và góp phần hình thành nên các phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho các em.
3.5.6. Kiểm tra đánh giá
Việc kiểm tra là phản ánh thực trạng tình hình, kết quả thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống sau khi người quản lý triển khai kế hoạch thực hiện, đối chiếu thực trạng đó với các văn bản liên quan; kết quả kiểm tra là cơ sở để thực hiện tiếp các nhiệm vụ đánh giá, tư vấn và thúc đẩy.
Đánh giá là xác định mức độ thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động giáo dục kỹ năng sống theo đúng quy định, phù hợp với bối cảnh địa phương và điều kiện thực tế nhà trường.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc kiểm tra đánh giá
Công tác kiểm tra, đánh giá nhằm mục tiêu cải thiện chất lượng hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường. Thông qua hoạt động kiểm tra đánh giá, người hiệu trưởng kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những sai lệch trong công tác giáo dục kỹ năng sống, từ đó có biện pháp tư vấn thúc đẩy để hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường đạt hiệu quả cao, góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục toàn diện.
Trong quá trình kiểm tra, đánh giá, người quản lý cần chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng như bối cảnh địa phương, điều kiện thực tế nhà trường, năng lực đội ngũ, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động, công tác chỉ đạo và biện pháp thực hiện.
4. Tài liệu tham khảo
- Luật giáo dục, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà nội, 2012.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Khóa XI, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà nội, 2012.
- Nghị quyết 40/2000/QH10 ngày 9 tháng 12 năm 2000 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
- Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 02/7/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 – 2013, 3 trang.
- Thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành “Điều lệ trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và tường phổ thông có nhiều cấp học”, 24 trang.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009 – 2020 lần thứ 14, Hà Nội, 2008, 45 trang.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tâm lý học lứa tuổi, tâm lý học sư phạm, Nhà xuất bản giáo dục, 2001, 208 trang.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục kỹ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở, Nhà xuất bản giáo dục Việt nam, 2010, 147 trang.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục kỹ năng sống trong Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường trung học cơ sở, Nhà xuất bản giáo dục Việt nam, 2010, 159 trang.
- Nguyễn Võ Kỳ Anh, Giáo dục kỹ năng sống trong giáo dục sức khỏe cho học sinh, Cục xuất bản Bộ Văn hóa, Hà nội, 1998.
- Vũ Cao Đàm, Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, 1997, 192 trang.
- Phạm Minh Hạc, Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2002, 574 trang.
- Nguyễn Thanh Bình, Giáo trình Giáo dục Kỹ năng sống, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà nội, 2007, 190 trang.
- Trần Kiểm, Khoa học quản lý – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Giáo dục, TP.Hồ Chí Minh, 2004.
- Nguyễn Lân, Tự điển Từ và ngữ Hán Việt, NXB Giáo dục, TP.Hồ Chí Minh, 1989.
- Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo, Tự điển Giáo dục học, Nhà xuất bản Tự điển Bách khoa, 2001, 518 trang.
- Dương Minh Hào, Dương Thùy Trang, Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh – Học lễ nghĩa, Nhà xuất bản Giáo dục Việt nam, 2009, 127 trang.
- Phạm Quỳnh Hoa, Dương Minh Hào, Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh – Sống hòa hợp với môi trường, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2009, 128 trang.
- Cù Thị Thúy Lan, Dương Minh Hào, Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh – Tránh xa những cám dỗ nguy hiểm Internet – Ma túy – Tình dục – Cờ bạc, Nhà xuất bản Giáo dục Việt nam, 2009, 132 trang.
- Nguyễn Thành Long, Tìm hiểu Luật Giáo dục, Nhà xuất bản Lao động, Hà nội 2007, 80 trang.
- Nguyễn Ngọc Quang, Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục, Trường Cán bộ QLGD ĐTI, Hà Nội, 1989.
- Nguyễn Bá Sơn, Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lý, Nhà xuất bản Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh, 2000.
- Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Giáo dục giá trị và kỹ năng sống cho học sinh phổ thông – Tài liệu tập huấn giáo viên Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Nhà xuất bản Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội, 2010, 144 trang.
- Nguyễn Thị Oanh, Mười cách thức rèn kỹ năng sống cho trẻ vị thành niên, Nhà xuất bản Trẻ, TP.HCM, 2006, 96 trang.
- Phương Liên, Minh Đức, Kỹ năng sống để làm chủ bản thân, Nhà xuất bản Trẻ, 2009, 160 trang.
The post Một số lý luận về quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống tại trường THCS appeared first on Luận văn 1080.
from Luận văn 1080 https://ift.tt/2NjKtt6
via gqrds
No comments:
Post a Comment