Duy trì và phát huy văn hoá truyền thống là nhiệm vụ quan trọng của toàn xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá nước nhà. Bài viết xin chia sẻ cho bạn đọc về vai trò của quản lý nhà nước trong việc duy trì và phát triển văn hóa truyền thống.
1.Văn hoá truyền thống trong thời kỳ hội nhập và phát triển
1.1 Các cách tiếp cận về văn hoá truyền thống
Để tìm hiểu về văn hoá truyền thống, trước hết cần tìm hiểu về văn hoá – một khái niệm quan trọng khi nói đến văn hoá truyền thống.
Văn hoá
Văn hoá là một khái niệm rộng được bắt nguồn từ chữ Latinh: “ Cultura” có nghĩa là sự cày cấy, vun trồng. Cùng với quá trình phát triển văn hoá ngày càng có nội dung phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm để phản ánh các góc độ của văn hoá. Bản chất của văn hoá là rộng và đa dạng , do vậy các khái niệm về văn hoá chỉ mang tính chất tương đối. Có thể đưa ra một số khái niệm về văn hoá như sau:
– Theo nghĩa hẹp: Văn hoá là những chính kiến xã hội để quyết định những ứng xử cá nhân trong xã hội đó.
– Theo nghĩa rộng:
– Quan điểm của UNESCO : “ Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định
tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng ” Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “ Thập niên thế giới phát triển văn hoá” tại Pháp ngày 21-1-1998, ngài Tổng thư ký UNESCO cũng từng phát biểu: văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động dân tộc trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên một hệ thống giá trị , các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định riêng biệt của mỗi dân tộc ”
– Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ V ( Khoá VIII ) Đảng ta xác định: “ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ”, và xác định “ Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc ”.
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá, văn nghệ, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá ”
Như vậy, văn hoá có nhiều khái niệm khác nhau dưới các góc độ khác nhau. Quan trọng nhất văn hoá được xem như tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra phục vụ nhu cầu sống của con người trong quá trình phát triển và là một nền tảng tinh thần không thể thiếu trong đời sống của con người.
Văn hoá truyền thống.
Văn hoá truyền thống là một khái niệm chỉ những nét văn hoá riêng biệt của một cộng đồng xã hội, được hình thành cùng với quá trình phát triển của cộng đồng xã hội đó và được lưu truyền qua các thế hệ; cụ thể là tính cách, là đạo đức, là phong tục tập quán, tư tưởng, lối sống, thói quen…. Văn hoá truyền thống tạo nên bản sắc dân tộc, là nét văn hoá riêng biệt của một cộng đồng xã hội, tồn tại và phát triển cùng lịch sử phát triển cộng đồng. Nét văn hoá đó đã ăn sâu vào trong nếp sống cũng như nếp nghĩ của cộng đồng xã hội đó.
Như vậy có thể quan niệm văn hoá truyền thống là toàn bộ giá trị, thành quả, thành tựu vật chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được lưu giữ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
Hay nói cách khác văn hoá truyền thống là đặc điểm đã in thành nếp sâu đậm trong tâm hồn, tình cảm , lối diễn đạt, tư duy của một cộng đồng qua bao thế kỷ gắn bó với nhau cùng phát triển.
Có thể nói văn hoá truyền thống là yếu tố cốt lõi của văn hoá dân tộc, nó là yếu tố quyết định bản sắc độc đáo của một nền văn hoá. Nền văn hoá truyền thống mà bị mai một hay mất đi thì một dân tộc sẽ mất đi chính bản thân mình. Do đó, việc giữ gìn và phát triển văn hoá truyền thống là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mỗi cộng đồng dân tộc, quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
1.2 Đặc trưng văn hoá truyền thống.
Văn hoá truyền thống là những giá trị sáng tạo, quan điểm thẩm mỹ của dân tộc, các chuẩn mực về tư tưởng đạo đức, giao tiếp ứng xử, phong tục, lễ nghi… thông qua đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Do đó văn hoá truyền thống có các đặc trưng như sau:
Thứ nhất, văn hoá truyền thống mang tính lịch sử: Văn hoá truyền thống hình thành và bồi đắp qua quá trình phát triển lâu dài của cộng đồng, dân tộc. Cộng đồng chính là nơi văn hoá truyền thống được hình thành và phát triển. Qua quá trình lao động sáng tạo của con người, những nét đẹp văn hoá dần được hình thành và bồi đắp qua thời gian. Văn hoá truyền thống không phải cái có sẵn, và khi có rồi không phải không cần bồi đắp. Có những giá trị nếu không được bồi đắp cùng với quá trình phát triển của con người sẽ bị mai một dần và mất hẳn. Tính lịch sử của văn hoá truyền thống thể hiện qua sự kế thừa các giá trị truyền thống. Văn hoá truyền thống của mỗi thời kỳ lịch sử mang dấu ấn của thời kỳ đó đồng thời kế thừa những giá trị của thời kỳ trước đó và là nền tảng cho thời kỳ tiếp theo phát triển.
Thứ hai, văn hoá truyền thống là một bộ phận của văn hoá, nó được dùng để phân biệt với tính hiện đại mà nền văn hoá đã tiếp thu trong quá trình phát triển. Nếu như văn hoá hiện đại là những giá trị văn hoá mới được tiếp thu thì văn hoá truyền thống là những giá trị đã hình thành và tồn tại từ lâu, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn. Tuy vậy, trên thực tế thì văn hoá truyền thống và tính hiện đại của văn hoá cũng có sự đan xen và kế thừa lẫn nhau. Văn hoá truyền thống là hệ thống các giá trị và các chuẩn mực lâu đời điều chỉnh các hoạt động cũng như quan hệ cộng đồng xã hội. Chẳng hạn những giá trị truyền thống văn hoá như tương thân tương ái, đồng cam cộng khổ hay yêu nước thương dân, tính cố kết cộng đồng… là những giá trị văn hoá tốt đẹp đã tồn tại lâu đời và được bồi đắp qua nhiều thế hệ. Do đó có thể khẳng định văn hoá truyền thống mang tính lâu đời.
Thứ ba, Văn hoá truyền thống cũng mang tính giá trị. Xét về giá trị của văn hoá truyền thống thì nó bao gồm cả những giá trị mang tính tích cực và những giá trị không còn phù hợp với đời sống hiện tại nữa. Những giá trị tích cực và còn phù hợp với đời sống hiện tại sẽ được giữ gìn, bảo tồn và phát huy. Còn những giá trị văn hoá không còn phù hợp nữa sẽ bị cải biến dần cho phù hợp hoặc sẽ bị loại bỏ khỏi nền văn hoá mới mà xã hội đang xây dựng. Chẳng hạn như, những giá trị truyền thống tốt đẹp như truyền thống tương thân tương ái, truyền thống đoàn kết… sẽ được phát huy, còn những giá trị truyền thống không còn phù hợp như những tập tục rườm rà, những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan không còn phù hợp…sẽ bị cải tiến thành phong tục phù hợp, hay loại bỏ hẳn để nền văn hoá phát huy vai trò đối với sự phát triển xã hội. Do đó vấn đề giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc cần xác định rõ đâu là những giá trị văn hoá cần giữ gìn và phát huy và cái nào cần cải tiến hay loại bỏ.
Thứ tư, văn hoá truyền thống mang tính giáo dục sâu sắc. Văn hoá truyền thống mang trong mình những khuôn mẫu ứng xử, làm nền tảng cho những hành vi trong xã hội. Văn hoá truyền thống cũng thể hiện tính giáo dục của mình đối với xã hội thông qua việc hướng con người hành động đúng với truyền thống vốn có của cộng đồng mà cả xã hội đã thừa nhận và làm theo. Nó là chuẩn mực xã hội để con người noi theo và thực hiện. Những phong tục tập quán, những hoạt động văn hoá mang tính cộng đồng như các lễ nghi, lễ hội đều mang trong mình những giá trị giáo dục cộng đồng sâu sắc. Phần lớn những nét truyền thống văn hoá đó giáo dục cho cộng đồng xã hội biết trân trọng và phát huy thành quả của quá trình xây dựng và phát triển xã hội mà cha ông nhiều thế hệ đã dày công vun đắp. Hơn nữa thông qua các lễ nghi truyền thống giáo dục con người biết ơn tổ tiên cha ông đã sinh thành và dưỡng dục, biết ơn các thế hệ đi trước. Đây là một nét văn hoá tốt đẹp của cộng đồng xã hội. Phát huy những giá trị văn hoá này cũng đồng nghĩa với việc phát huy nền tảng tinh thần cho xã hội, định hướng cho xã hội hoạt động tốt hơn, phù hợp hơn với môi trường sống hiện đại.
Thứ năm, văn hoá truyền thống mang tính bền vững. Những giá trị văn hoá truyền thống bao giờ cũng tồn tại lâu đời và được xã hội thừa nhận và trân trọng giữ gìn qua nhiều thế hệ. Nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của xã hội. Nó giống như động lực cho con người lao động sản xuất tốt hơn. Chẳng hạn như truyền thống các ngày lễ tết là một thí dụ. Trải qua bao biến cố của lịch sử phát triển, truyền thống lễ tết ở Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển, nó là một bộ phận của cuộc sống con người Việt Nam. Sau những tháng ngày lao động vất vả dịp lễ tết là thời gian để mọi người nghỉ ngơi lấy lại tinh thần tiếp tục công việc, là dịp để mọi người thể hiện lòng biết ơn tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là dịp mọi người quan tâm tới nhau, tới tình làng nghĩa xóm… Có lẽ không một gia đình Việt Nam nào lại nằm ngoài giá trị văn hoá truyền thống đó. Dó đó có thể nói rằng văn hoá truyền thống là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự phát triển xã hội, khó có thể mất đi cho dù xã hội có nhiều biến động. Đồng thời tính bền
vững của văn hoá còn thể hiện cả những mặt bảo thủ, trì trệ. Những mặt bảo thủ, trì trệ này tồn tại một cách bền bỉ, dai dẳng cùng với quá trình phát triển. Đặc điểm này đòi hỏi trong quản lý Nhà nước đối với văn hoá truyền thống cần có tác động thích hợp để nhanh chóng loại bỏ tính bảo thủ, trì trệ của những giá trị đã lạc hậu không phù hợp với quá trình phát triển, nhằm tạo điều kiện cho văn hoá truyền thống phát triển tốt nhất theo định hướng.
1.3 Vai trò của văn hoá truyền thống đối với sự phát triển xã hội và quá trình hội nhập quốc tế.
Đánh giá vai trò của văn hoá Đảng ta đã khẳng định: “ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ”( Nghị quyết trung ương V khoá VIII của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng ).
Văn hoá truyền thống là nòng cốt của nền văn hoá nói chung, quá trình phát triển xã hội không thể không trân trọng những vai trò to lớn của văn hoá truyền thống. Văn hoá truyền thống là nền tảng tinh thần cho xã hội, nó biểu hiện sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh của một dân tộc và được biểu hiện thông qua những truyền thống và hệ giá trị mang tính đặc trưng cho bản sắc văn hoá của dân tộc. Truyền thống và hệ giá trị này được thấm nhuần trong mỗi con người và cả cộng đồng, dân tộc; được chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy qua các thế hệ; được vật chất hoá trong các cấu trúc thiết chế chính trị – xã hội và trong hoạt động sống của cả dân tộc. Là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá truyền thống cũng như văn hoá biểu hiện sức sống, sức phát triển, sự hiểu biết và trí tuệ, đạo lý, tâm hồn…của con người, của dân tộc và trong mối quan hệ của con người với đồng loại, với xã hội, với tự nhiên được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử.
Đối với xã hội có một nền tảng tinh thần vững chắc thì mới có sự phát triển về kinh tế xã hội. Nhìn nhận yếu tố quyết định đối với sự phát triển xã hội thì con người đứng ở vị trí trung tâm. Chính con người chứ không phải lực lượng nào khác quyết định sự phát triển của mình. Đánh giá vai trò của con người đối với sự phát triển thì con người “vừa là mục tiêu vừa là động lực” của sự phát triển. Con người với tài năng và óc sáng tạo của mình làm ra của cải vật chất cho chính bản thân mình và cho xã hội. Muốn có được năng suất lao động cao, hiệu quả con người phải có trí tuệ, phải có trình độ khoa học công nghệ, và đặc biệt phải có sức khoẻ, sức khoẻ ở đây bao gồm thể lực và trí lực. Mà con người có phát triển toàn diện thì mới có được sức khoẻ đó, văn hoá truyền thống chính là một yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên một con người vừa có sức khoẻ về thể chất vừa khoẻ về tâm hồn để lao động và sáng tạo.
Hơn thế nữa, văn hoá truyền thống là một phương tiện giáo dục xã hội góp phần tạo nên một giá trị vô cùng quan trọng đối với bản thân mỗi con người và với cả xã hội. Đó là yếu tố tài và đức. Đây là hai yếu tố tạo nên một con người mới với trình độ văn hoá cao, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Văn hoá truyền thống với những hệ giá trị như chăm chỉ cần cù, chịu thương chịu khó, tương thân tương ái… sẽ giúp con người phát huy được mọi khả năng sáng tạo của mình trong học tập cũng như trong lao động sản xuất, dưới sự giúp đỡ của cộng đồng. Cũng nhờ những giá trị của văn hoá truyền thống đã giáo dục cho con người dần hoàn thiện giá trị đạo đức của mình trở thành con người có trí đức hoàn thiện để cùng cộng đồng phát triển.
Như vậy, văn hoá truyền thống là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc xây dựng con người mới – mục tiêu và động lực của sự phát triển. Con người mới với sức khoẻ và trí tuệ mới sẽ là lực lượng quyết định đối với mọi sự phát triển. Vì thế chăm lo xây dựng con người mới không thể không chăm lo xây dựng văn hoá cho cộng đồng xã hội, đặc biệt là văn hoá truyền thống dân tộc. Hay nói cách khác chăm lo giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống chính là chăm lo xây dựng con người mới, là tạo động lực cho các quá trình phát triển.
Không chỉ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, văn hoá truyền thống còn đóng vai trò quan trọng trong giao lưu hội nhập với quốc tế. Quá trình hội nhập là một quá trình giao lưu giữa các quốc gia với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực văn hoá. Các quốc gia thông qua quá trình hội nhập, sẽ giao lưu, trao đổi kinh nghiệm cũng như các tinh hoa văn hoá với nhau làm phong phú thêm nền văn hoá nước nhà. Tham gia hội nhập quốc tế là một đòi hỏi tất yếu khách quan của các quốc gia. Muốn phát triển, các quốc gia không thể không tham gia vào quá trình vận động chung của quá trình hội nhập. Hội nhập chính là cơ hội để các quốc gia cùng nhau giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội mang tính toàn cầu. Phải nhận thấy rằng vấn đề tham gia hội nhập với khu vực và thế giới của các quốc gia không chỉ là sự hội nhập về mặt chính trị, do các Chính Phủ đảm nhận, mà có cả sự tham gia của người dân. Có thể nói sự tham gia hội nhập của người dân chính là yếu tố mở đường cho các quốc gia hội nhập sâu rộng hơn. Quan hệ giữa nhân dân các nước là điều kiện tiền đề cho các quốc gia quan hệ với nhau thân thiết hơn về mọi mặt. Sự giao lưu của nhân dân các nước trên nhiều lĩnh vực trước hết phải là sự giao lưu về mặt văn hoá. Văn hoá truyền thống tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế hay toàn cầu hoá với tư cách là yếu tố khẳng định tính riêng biệt độc đáo của một dân tộc. Tính riêng biệt độc đáo đó là nền tảng để các quốc gia khẳng định bản sắc của riêng mình, từ đó có thể mở rộng quan hệ trên nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau như kinh tế, chính trị, giáo dục hay y tế…
Trong giao lưu hợp tác quốc tế, tính dân tộc của văn hoá truyền thống nhiều khi quyết định đến tính chất và mức độ của quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực. Chẳng hạn như, với những nét văn hoá đặc sắc, truyền thống văn hoá mang đậm nét cổ truyền sẽ giúp các quốc gia mở rộng hợp tác về du lịch văn hoá truyền thống, với truyền thống cần cù, ham học hỏi của người lao động Việt Nam là yếu tố thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để phát triển kinh tế. Cùng với quá trình hội nhập, văn hoá truyền thống sẽ làm sợi dây liên kết các quốc gia lại với nhau cùng hợp tác và phát triển trên nhiều lĩnh vực khác. Đồng thời văn hoá truyền thống của dân tộc cũng chính là yếu tố để khẳng định mình cùng với bạn bè thế giới. Một quốc gia dân tộc tham gia vào một sân chơi rộng lớn lại không khẳng định được mình là ai thì chắc chắn một điều rằng mối quan hệ với các quốc gia khác không thể bền vững được. Điều này khẳng định rằng, không có tính độc đáo cá biệt của mình sẽ không thể tham gia hội nhập được. Tính độc đáo của riêng mình trong mỗi quốc gia chỉ có được nhờ văn hoá truyền thống dân tộc hay bản sắc dân tộc đó mà thôi.
Chính vì những điều này mà UNESCO đã phát động “ Thập niên thế giới phát triển văn hoá ” trong đó có đề cao yếu tố các quốc gia phải đặc biệt quan tâm tới quá trình bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá độc đáo của mình. Đó chính là nền tảng cho sự phát triển và tham gia hội nhập quốc tế. Hễ quốc gia nào mà không quan tâm phát triển văn hoá, đặc biệt văn hoá truyền thống và coi văn hoá như một nhân tố điều tiết xã hội, gắn với phát triển kinh tế thì quốc gia đó sẽ bị mất cân đối trong phát triển và không còn là bản thân mình nữa. Điều này cho thấy vai trò của văn hoá truyền thống đã được các quốc gia thừa nhận, và đã trở thành một chương trình hoạt động chung của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu phát triển con người. Không chăm lo bảo vệ và phát huy văn hoá truyền thống đồng nghĩa với dân tộc đó tự đánh mất mình, đồng nghĩa với việc mất văn hoá dân tộc là mất nước, chịu sự lệ thuộc về văn hoá, đất nước, dân tộc đó sẽ không thể tồn tại độc lập được.
Như vậy, văn hoá, và văn hoá truyền thống là một yếu tố có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nói chung và quá trình hội nhập quốc tế nói riêng. Chăm lo giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc chính là chăm lo cho sự phát triển bền vững của dân tộc và làm cho văn hoá nhân loại thêm phong phú hơn.
2 Lễ hội truyền thống – một hoạt động quan trọng góp phần duy trì và phát triển văn hoá truyền thống
2.1 Lễ hội truyền thống và các loại hình lễ hội
2.1.1 Lễ hội truyền thống
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” – những người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc… Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc và là dịp để mọi người gặp gỡ nhau, giao lưu sinh hoạt văn hoá với nhau.
2.1.2 Các loại hình lễ hội
– Theo tính chất của lễ hội truyền thống, có:
– Lễ hội mang tính tính ngưỡng: Tết truyền thống, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội
Chùa Hương, Lễ hội Cầu Mùa… Đây là loại lễ hội truyền thống có số lượng lớn nhất
– Lễ hội văn nghệ dân gian: Hội Chèo, Hội Lim…
– Theo phạm vi, quy mô:
– Lễ hội cấp quốc gia: Lễ hội Đền Hùng,
– Lễ hội cấp Tỉnh: Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư ( Ninh Bình ), Lễ hội
– Lễ hội cấp Huyện: Hội đền Thái Vi ( Ninh Bình), Hội chùa Keo ( Hà Tây),…
– Lễ hội cấp xã: Đây là loại lễ hội chiếm số lượng lớn nhất với các hình thức tổ chức phong phú mang đậm nét truyền thống của cộng đồng từng làng quê Việt Nam
– Theo quy chế tổ chức và quản lý lễ hội, gồm
– Lễ hội dân gian
– Lễ hội lịch sử cách mạng
– Lễ hội tôn giáo
– Lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam
2.2 Đặc điểm của lễ hội truyền thống
– Tính cộng đồng. Mỗi một lễ hội truyền thống đều mang tính cộng đồng
sâu sắc. Tính cộng đồng của lễ hội thể hiện ở chỗ chính từ cộng đồng mà lễ hội truyền thống được hình thành nên. Lễ hội truyền thống được ra đời phục vụ nhu cầu của cộng đồng, đó là nhu cầu tín ngưỡng; nhu cầu giao lưu, sinh hoạt văn hoá với nhau…Hơn nữa cộng đồng chính là mảnh đất để cho các lễ hội truyền thống tồn tại và phát triển. Lễ hội ra đời phục vụ cho nhu cầu văn hoá cũng như tâm linh của con người. Vì thế lễ hội truyền thống gắn kết chặt chẽ với cộng đồng xã hội. Một lễ hội được tổ chức mà không được cộng đồng tham gia, không được cộng đồng coi trọng thì chắc chắn lễ hội đó không mang tính cộng đồng cao.
– Hầu hêt các lễ hội truyền thống đều có đặc điểm là bao gồm hai phần
chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ mang tính trang nghiêm, mang ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Phần lễ thường là những nghi thức trang trọng thể hiện sự tạ ơn đối với những người có công với cộng đồng và cầu mong cho mưa thuận gió hoà, cầu cho cuộc sống được bình an, hạnh phúc. Còn phần hội chính là phần sinh hoạt văn hoá của cộng đồng. Phần hội này bao gồm các trò chơi dân gian truyền thống, vừa có tác dụng thu hút mọi người tham gia lễ hội vừa có tác dụng giải trí, tạo tâm lý thoải mái cho người dân để chuẩn bị bước vào vụ sản xuất mới, đồng thời làm tăng tính cố kết cộng đồng, tinh thần đoàn kết của người dân trong làng xã. Xét về nguồn gốc, phần lớn các trò chơi dân gian đều xuất phát từ ước vọng thiêng liêng của người nông dân. Ví dụ trò pháo đất, đốt pháo, trò thả diều… xuất phát từ tiếng sấm cầu mưa thuận gió hoà; trò cướp cầu, đánh đáo, ném còn thì thể hiện ước vọng cầu an; trò thi bắt lợn, thi thổi cơm, trò đập niêu thể hiện mong ước chân cứng đá mềm, nhanh chân nhanh tay, sức khoẻ dẻo dai…..
– Tính giáo dục sâu sắc.
Lễ hội truyền thống là dịp để cho mỗi người trở về với cội nguồn, vừa là dịp để cho mỗi người gặp nhau sau những lo toan của cuộc sống hàng ngày. Lễ hội là dịp để mọi người thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn với những người có công với làng xã, với đất nước. Qua lễ hội, mỗi người có dịp bày tỏ lòng biết ơn đó, được ôn lại lịch sử cũng như được thấm nhuần các giá trị to lớn của truyền thống mà cha ông đã để lại. Qua các nghi thức cúng lễ, qua các trò chơi dân gian, các thế hệ truyền lại cho nhau những giá trị truyền thống to lớn mà cha ông đã dày công vun đắp nên. Tất cả đều một mục đích giáo dục cho thế hệ sau biết trân trọng, giữ gìn những gì cha ông đã hy sinh cả xương máu và tính mạng tạo nên, đồng thời giáo dục cho các thế hệ đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, khơi dậy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, giúp đỡ nhau cùng phát triển
2.3 Vai trò của lễ hội truyền thống trong việc duy trì và phát triển văn hoá truyền thống
Lễ hội truyền thống là một hoạt động sinh hoạt văn hoá của cộng đồng xã hội. Nó có vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội nói chung và với việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống nói riêng. Vai trò đó được biểu hiện qua các mặt như sau:
Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Trở về với cội nguồn con người thể hiện lòng tri ân của mình với các thế hệ trước, thể hiện tấm chân tình đối với cha ông đã sinh thành, dưỡng dục và để lại thành quả cho các thế hệ kế tiếp. Nhớ về cội nguồn, nhớ về công lao của cha ông chính là đạo lý “ uống nước nhớ nguồn ”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây ” đã tồn tại từ bao đời nay của dân tộc Việt Nam. Lễ hội chính là dịp để mỗi người thể hiện đạo lý truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc ta. Do đó có thể nói rằng, lễ hội đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Lễ hội còn thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Sức mạnh to lớn của tinh thần đoàn kết từ bao đời nay của cha ông ta được thể hiện thông qua lễ hội. Cộng đồng cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm lao động sản xuất, chia sẻ kinh nghiệm sống, tương trợ lẫn nhau theo tinh thần “ là lành đùm lá rách” để cùng nhau phát triển. Lễ hội cũng chính là nơi con người có thể hiểu nhau hơn. Nếu không có lễ hội thì cơ hội để cộng đồng hiểu biết nhau, chia sẻ với nhau những kinh nghiệm của cuộc sống sẽ khó khăn hơn do những lo toan, bươn trải cho cuộc sống. Vì vậy, lễ hội là mảnh đất cho tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong cộng động xã hội phát triển.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, lưu giữ và chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí…Lễ hội là nơi có tính giáo dục sâu sắc, đặc biệt là giáo dục về những giá trị truyền thống. Cùng với lễ hội các giá trị truyền thống của dân tộc được tái hiện lại một cách sinh động thông qua các nghi lễ, các trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca dân vũ…tất cả đều tái hiện lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc tái hiện lại những giá trị truyền thống đó chính là việc chuyển giao lại cho các thế hệ sau giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị của chúng. Bên cạnh đó, lễ hội cũng là dịp để con người sáng tạo văn hoá, giao lưu văn hoá với các nền văn hoá khác. Đây cũng là cơ hội để cho các giá trị truyền thống được quảng bá rộng rãi và phát huy trong cuộc sống của cộng đồng.
Như vậy, có thể nói lễ hội truyền thống là nơi hội tụ, là mảnh đất màu mỡ để cho văn hoá truyền thống phát triển. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc được lưu giữ , bảo tồn và phát huy thông qua lễ hội. Do vậy lễ hội là một điều kiện quan trọng để văn hoá truyền thống tại và phát huy, việc khôi phục và phát triển các lễ hội truyền thống cũng chính là việc giữ gìn và phát triển văn hoá truyền thống của dân tộc.
3 Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về văn hoá để duy trì và phát huy văn hoá – lễ hội truyền thống
3.1 Vai trò của Nhà nước đối với việc duy trì và phát huy văn hoá – lễ hội truyền thống
– Vai trò định hướng hoạt động
Duy trì và phát huy văn hoá truyền thống là nhiệm vụ quan trọng của toàn xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá nước nhà. Muốn cho nền văn hoá của đất nước đặc biệt là văn hoá truyền thống phát triển một cách đúng đắn thì phải có một định hướng nhất định. Vai trò định hướng cho văn hoá truyền thống được bảo tồn và phát triển thuộc về Nhà nước. Nhà nước định hướng cho văn hoá truyền thống phát triển theo một mục tiêu, một đường hướng nhất định. Sự định hướng của Nhà nước giúp cho văn hoá truyền thống dân tộc được chọn lọc và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của mình đồng thời loại bỏ những giá trị mang tính lạc hậu, không còn phù hợp với cuộc sống đương đại nữa. Như vậy, vai trò định hướng của Nhà nước ở đây chính là việc hướng cho những giá trị nào là tốt đẹp, là tích cực có vai trò quan trọng trong cuộc sống cộng đồng được bảo tồn và phát huy, đồng thời xác định những gì đã lạc hậu hay mang tính chất không có lợi cũng như không còn phù hợp nữa để có biện pháp loại bỏ hoặc thay thế cho phù hợp.
Trong những năm qua, vai trò định hướng của Nhà nước đối với việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống đã được thể hiện thông qua các chủ trương, đường hướng phát triển văn hoá và các văn bản quản lý. Trong đó có định hướng những giá trị truyền thống cần được bảo tồn và phát triển, đồng thời cũng quy định những giá trị lạc hậu cần loại bỏ. Chẳng hạn như trong Quy chế tổ chức lễ hội ban hành kèm theo Quyết định số 09/2001/QĐ-BVHTT của Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin có quy định về mục tiêu của việc tổ chức lễ hội tại điều 2 như sau:
“ 1. Tưởng nhớ công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các liệt sĩ, các bậc tiền bối đã có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
3. Đáp ứng nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng, tham quan các di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan thiên nhiên và các nhu cầu chính đáng khác của nhân dân. ”
Đồng thời quy định cả những điều cấm trong lễ hội, được quy định tại điều 3 như sau:
“1. Lợi dụng lễ hội để tổ chức các hoạt động chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây mất trật tự, an ninh, tuyên truyền trái pháp luật, chia rẽ đoàn kết dân tộc.
2. Tổ chức các hoạt động mê tín dị đoan, phục hồi hủ tục trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
3. Tổ chức các dịch vụ sinh hoạt ăn nghỉ và dịch vụ tín ngưỡng trong khu vực nội tự.
4. Đánh bạc dưới mọi hình thức.
5. Đốt đồ mã (nhà lầu, xe, ngựa, đồ dùng sinh hoạt…).
6. Những hành vi vi phạm pháp luật khác.”
Như vậy, Quy chế đã quy định những mục đích cụ thể của việc tổ chức lễ hội, đồng thời nghiêm cấm các hành vi không đi đúng với mục đích tổ chức lễ hội gây ảnh hưởng xấu đến môi trường văn hoá truyền thống. Điều này thể hiện rõ sự định hướng của Nhà nước cho việc tổ chức và quản lý lễ hội, một nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của cộng đồng xã hội.
– Vai trò hỗ trợ.
Nhà nước không chỉ có vai trò định hướng đối với sự phát triển văn hoá truyền thống mà còn đóng vai trò là lực lượng hỗ trợ cho văn hoá truyền thống được duy trì và phát huy theo sự định hướng của Nhà nước. Nhà nước hỗ trợ cho văn hoá truyền thống được duy trì và phát triển thông qua các hình thức sau:
Thứ nhất là hỗ trợ về mặt kinh phí hoạt động. Văn hoá truyền thống để được duy trì và phát huy theo định hướng của Nhà nước cần có kinh phí để thực hiện. Ngoài kinh phí do cộng đồng xã hội đóng góp, cần có một khoản kinh phí hỗ trợ từ phía Nhà nước cũng như hỗ trợ về mặt quản lý và sử dụng kinh phí cho các hoạt động. Kinh phí thực hiện việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống là yếu tố hết sức quan trọng, nó là một yếu tố quyết định tới sự thành công hay không của sự nghiệp phát triển văn hoá. Trong thực tế của sự nghiệp phát triển văn hoá, đặc biệt là vấn đề bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống đã có nhiều trường hợp do thiếu kinh phí tổ chức hoạt động mà các giá trị của văn hoá không được bảo tồn và phát huy. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về mặt kinh phí để thực hiện việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống.
Thứ hai là hỗ trợ về mặt pháp lý. Cũng như các lĩnh vực khác, văn hoá truyền thống cũng cần có một môi trường pháp lý để hoạt động. Môi trường pháp lý chính là yếu tố tạo cho văn hoá truyền thống được diễn ra theo đúng mục tiêu và chính sách của Nhà nước. Có một môi trường pháp lý an toàn, văn hoá truyền thống có điều kiện được phát triển mạnh mẽ dưới sự hỗ trợ cũng như đảm bảo của Nhà nước. Bằng việc ghi nhận các lĩnh vực văn hoá truyền thống như văn nghệ dân gian, các nét sinh hoạt truyền thống, các phong tục tập quán…trong các văn bản pháp luật và quy định có cơ chế bảo vệ văn hoá truyền thống bằng pháp luật chính là việc thể hiện vai trò hỗ trợ về mặt pháp lý hay nói cách khác chính là việc tạo môi trường pháp lý cho văn hóa truyền thống phát triển theo định hướng.
Thứ ba là hỗ trợ về mặt chuyên môn cũng như phương thức thực hiện. Việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp cần có chương trình và kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Cộng đồng xã hội hơn ai hết hiểu rất rõ về những giá trị tốt đẹp của văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển, nhiều khi việc cộng đồng tự đánh mất những giá trị văn hoá truyền thống mà không hề hay biết, khi biết rồi thì cũng không biết phải khôi phục bằng cách nào. Thậm chí chính cộng đồng cũng không biết trong các giá trị của văn hoá truyền thống thì những giá trị nào cần phải lưu giữ, phát huy và những giá trị nào cần thay đổi. Nhà nước thông qua các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà nước về văn hoá có vai trò quan trọng giúp cho cộng đồng thấy được điều đó, đồng thời hỗ trợ về mặt chuyên môn để các giá trị của văn hoá truyền thống được duy trì và phát triển tốt hơn. Thí dụ như việc tổ lễ hội truyền thống, Nhà nước sẽ hỗ trợ việc tổ chức thông qua cơ quan chuyên môn quản lý về văn hoá. Các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà nước về văn hoá sẽ hỗ trợ về mặt chương trình, cố vấn về các nghiệp vụ tổ chức lễ hội, trong đó sưu tầm các hoạt động văn hoá dân gian như dân ca, dân vũ, các trò chơi dân gian trong lễ hội…Đồng thời hỗ trợ về mặt kiểm tra giám sát các quy định chung để thực hiện các hoạt động giữ gìn và phát triển văn hoá truyền thống.
Như vậy, với sự hỗ trợ to lớn từ phía Nhà nước giúp cho văn hoá truyền thống phát triển theo chiều hướng tích cực, góp phần bảo vệ, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc, chống ảnh hưởng xấu, đồng thời giao lưu học hỏi những tinh hoa văn hoá thế giới để góp thêm hơi thở hiện đại cho văn hoá – yếu tố quan trọng để văn hoá truyền thống có thể duy trì và phát triển trong bối cảnh mới.
– Vai trò nòng cốt trong việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn
hoá, trong đó có nhiệm vụ giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống. Do đó Nhà nước đóng vai trò là lực lượng tiên phong đi đầu. Chủ trương xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được Nhà nước xây dựng thành các chương trình, kế hoạch cụ thể. Nhà nước cần có chương trình và kế hoạch huy động, khuyến khích cả xã hội cùng tham gia.
Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với việc giữ gìn và phát triển văn hoá truyền thống.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực đã và đang diễn ra hiện nay làm cho văn hoá cũng trở thành một lĩnh vực của hội nhập. Trong đó việc giao lưu về văn hoá giữa các quốc gia là một tất yếu khách quan. Muốn phát triển văn hoá các quốc gia không thể khép kín trong mỗi quốc gia, dân tộc. Do đó, nhất định sẽ có sự tác động qua lại giữa các quốc gia về văn hoá. Điều này dẫn đến hai hệ quả khác nhau. Nếu biết tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa văn hoá của các quốc gia khác sẽ làm cho nền văn hoá dân tộc thêm đa dạng, phong phú và phát triển. Ngược lại, nếu tiếp thu không chọn lọc và không chú ý giữ gìn văn hoá truyền thống sẽ làm mai một đi văn hóa truyền thống. Vì vậy, việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phải đi đôi với giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống. Nhận thức được vai trò quan trọng của vấn đề giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống, tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII ( 1991 ), Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu xây dựng nền văn hoá “ tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cùng với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì vấn đề giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống càng được chú trọng hơn, nó không chỉ là nhiệm vụ của từng quốc gia mà của cả nhân loại. Chính vì thế mà UNESCO đã phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hoá” và nhấn mạnh các quốc gia cần phải có chương trình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của quốc gia mình.
Như vậy, việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống không chỉ là nhiệm vụ của riêng Việt Nam hay một quốc gia nào mà của cả cộng đồng thế giới. Để nền văn hoá Việt Nam phát triển là một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã ra một Nghị quyết riêng về vấn đề này. Đó là Nghị quyết của Hội nghị lần thứ V – Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về “ xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ”. Tại Nghị quyết này, Đảng ta đã chủ trương giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống để xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thông qua các nhiệm vụ cụ thể là nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá; đồng thời bảo tồn, phát huy và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu số. Trong đó khẳng định “ Di sản vǎn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu vǎn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị vǎn hóa truyền thống (bác học và dân gian), vǎn hóa cách mạng, bao gồm cả vǎn hóa vật thể và phi vật thể ”.
Đồng thời “ Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số…
Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật là người dân tộc thiểu số. Ưu tiên tài trợ cho các tác giả dân tộc thiểu số có tài nǎng sáng tạo các tác phẩm về đề tài dân tộc và miền núi. Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số và tạo điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê hương. Phát huy tài nǎng các nghệ nhân…”
Tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII được tiếp tục khẳng định qua các kỳ Đại hội IX, X của Đảng ta. Trong đó tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, văn hoá truyền thống được định hướng phát triển như sau: “ Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hoá”; phong trào “Người tốt, việc tốt”. Thực hiện tốt phong trào thi đua yêu nước, …, kiên quyết đấu tranh loại trừ các hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã hội.
Phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng, giữa các vùng cả nước và giao lưu văn hoá với bên ngoài. Tiếp tục đưa các hoạt động văn hoá thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc; phát động phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình, bản, làng văn hoá;…”. Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại định hướng phát triển văn hoá của Đại hội Đảng X: “ Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế …; chống những hiện tượng phản văn hoá, phi văn hoá”.
Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong đó có nhiệm vụ duy trì và phát huy văn hoá truyền thống, Nhà nước ta đã có nhiều chương trình cụ thể. Thông qua hệ thống chính sách, văn bản quản lý Nhà nước đã và đang từng bước có các hoạt động cụ thể hoá các chủ trương lớn của Đảng về văn hoá truyền thống của Việt Nam. Chẳng hạn như Luật Di sản văn hoá được Quốc Hội ban hành ngày 29/6/2001 là cơ sở pháp lý cao nhất cho việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, trong đó có các giá trị văn hoá phi vật thể và văn hóa vật thể. Ngày 31/7/2007 Thủ tướng Chính Phủ ban hành quyết định số 125/2007/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về văn hoá giai đoạn 2006-2010, trong đó nêu rõ mục tiêu, các dự án cụ thể như: dự án chống xuống cấp và tôn tạo di tích; dự án sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hoá phi vật thể của các dân tộc Việt Nam; dự án điều tra, nghiên cứu, bảo tồn một số làng, bản tiêu biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của dân tộc ít người…Hay như quyết định số 124/2003/QĐ-TTg ngày 17/6/2003, Thủ Tướng Chính Phủ đã ký phê duyệt Đề án Bảo tồn phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong đó có nêu rõ lộ trình, chủ đề án, nội dung bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc thiểu số… Đây là một trong những biện pháp cụ thể nhằm duy trì và phát huy văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số nói chung và của văn hoá truyền thống dân tộc nói chung. Bên cạnh đó cơ quan Trung ương quản lý Nhà nước về văn hoá là Bộ Văn Hoá – Thể Thao và Du Lịch cũng đã có các chương trình cụ thể, chẳng hạn như Quyết định số 214/2007/QĐ-BVHTTDL ngày 29/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch về phân bổ ngân sách sự nghiệp 2007 của mục tiêu điều tra, sưu tầm và bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể thuộc diện văn hoá – thông tin… Đó chính là sự cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển văn hoá trong đó có giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống của Nhà nước ta.
3.2 Những yêu cầu chung quản lý Nhà nước đối với văn hoá truyền thống
Do những đặc trưng cơ bản của văn hoá truyền thống nên trong quá trình quản lý Nhà nước cần chú ý những yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải xác định rõ đối tượng quản lý. Văn hoá truyền thống là một lĩnh vực rộng lớn bao gồm nhiều lĩnh vực về văn hoá khác nhau, mỗi lĩnh vực về văn hoá truyền thống lại có một đặc thù riêng, tính chất riêng. Vì vậy trong quản lý nhất thiết phải xác định rõ đặc điểm riêng có của đối tượng quản lý để có phương thức quản lý thích hợp, đặc biệt cần xác định đối tượng nào cần có sự quản lý của Nhà nước, đối tượng nào có thể giao cho cộng đồng tự quản lý. Chẳng hạn như đối với các lễ hội truyền thống, trong quản lý cần xác định các lễ hội nào cần phải có sự xét duyệt và cho phép của cơ quan quản lý Nhà
nước, lễ hội nào không cần phải xin phép. Hay như đối với quản lý văn nghệ dân gian, cần xác định rõ những loại hình biểu diễn nào cần có sự xét duyệt và cho phép của cơ quan quản lý Nhà nước, loại hình nào không phải xin phép…Việc xác định rõ đối tượng quản lý Nhà nước sẽ tránh cho các hoạt động văn hoá truyền thống phát triển lệch với mục tiêu và định hướng chung. Đồng thời nó giúp cho cơ quan quản lý tránh hiện tượng ôm đồm trong quản lý trong khi có những hoạt động không nhất thiết phải Nhà nước quản lý mà vẫn đem lại hiệu quả cao.
Thứ hai, Văn hoá truyền thống mang tính giá trị hai mặt, do đó trong quản lý Nhà nước cần xác định rõ đâu là những giá trị cần bảo tồn và phát huy, đâu là những giá trị đã lạc hậu cần loại bỏ. Xác định được đúng các giá trị này của văn hoá truyền thống sẽ giúp cho Nhà nước có định hướng đúng đắn cho việc phát triển nền văn hoá nói chung và việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống nói riêng, đồng thời có biện pháp hỗ trợ thích hợp cho việc thực hiện các mục tiêu quản lý đã đề ra.
Thứ ba, Văn hoá truyền thống do cộng đồng sản sinh ra. Vì vậy trong quản lý Nhà nước đối với văn hoá truyền thống cần phải kết hợp chặt chẽ với cộng đồng xã hội. Đây là yếu tố quan trọng quyết định tới thành công của hoạt động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này. Nếu không kết hợp với cộng đồng trong quản lý, nhà quản lý sẽ không tránh khỏi tình trạng thụ động, chủ quan duy ý trí khi đưa ra chủ trương, chính sách cho phát triển văn hoá. Bởi lẽ, không gắn kết với cộng đồng thì nhà quản lý sẽ không hiểu hết các nhu cầu về văn hoá truyền thống, không hiểu được một cách cặn kẽ, sâu sắc các giá trị mà cộng đồng xã hội muốn lưu giữ và phát triển cũng như những giá trị muốn loại bỏ. Trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống thì cộng đồng chính là nhân tố quyết định. Bởi không phải ai khác chính cộng đồng xã hội là nơi lưu giữ các giá trị của văn hoá truyền thống. Việc phát huy các giá trị ấy cũng do chính cộng đồng quyết định. Việc gắn kết với cộng đồng trong quản lý được thể hiện thông qua việc Nhà nước và nhân dân cùng làm, tức là việc đưa ra chính sách phải phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng và phải được cộng đồng tham gia thực hiện. Có như vậy các chính sách mới thành công được.
Thứ tư, phải kết hợp các phương pháp quản lý Nhà nước với cơ chế quản lý mềm. Văn hoá truyền thống là những giá trị lâu đời, do cộng đồng xã hội sản sinh ra qua nhiều thế hệ. Do văn hoá truyền thống là do cộng đồng sáng tạo ra qua quá trình lịch sử, nên nó cũng có sự bảo vệ và quản lý theo các quy định riêng của cộng đồng, đó là cơ chế quản lý mang tính cộng đồng hay chính là các cơ chế mềm. Ở đây các quy định chuẩn mực được cộng đồng tự giác thực hiện một cách tự nguyện. Do đó trong quá trình quản lý Nhà nước về văn hoá truyền thống cần kết hợp một cách khéo léo giữa các phương pháp quản lý nhà nước với cơ chế quản lý cộng đồng.
4 Nội dung một số chính sách lớn của Nhà nước để bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống
4.1 Hệ thống chính sách của Nhà nước.
Giữ gìn và phát triển lễ hội truyền thống là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ duy trì và phát huy văn hoá truyền thống của Nhà nước ta. Để lễ hội truyền thống được duy trì và phát triển theo định hướng, trong những năm qua Nhà nước ta đã ban hành các chính sách tạo điều kiện cho các lễ hội được tổ chức và được quản lý theo đúng chủ trương và định hướng. Hệ thống các văn bản liên quan đến việc tổ chức và quản lý lễ hội do Nhà nước ta ban hành bao gồm:
– Luật Di sản văn hoá năm 2001;
– Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính Phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội;
– Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2006 của Chính Phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng;
– Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2006 của Chính Phủ về xử phạt hành chính trong hoạt động văn hoá – thông tin;
– Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT ngày 23 tháng 8 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Văn Hoá Thông Tin về việc ban hành Quy chế tổ chức lễ hội ;
– Văn bản số 04/VHTTCS-DĐSVH gửi Sở VH-TT các địa phương yêu cầu chỉ đạo, quản lý và tổ chức lễ hội năm 2007 theo tinh thần Nghị định số 11/2006/NĐ-CP của Chính Phủ…
Luật Di sản văn hoá năm 2001 quy định việc bảo vệ các di sản văn hoá gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể – là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Luật ban hành nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hoá, đồng thời xác định quyền và nghĩa vụ của các cá nhân tổ chức đối với di sản văn hoá của Việt Nam. Phạm vi điều chỉnh của luật Di sản là di sản văn hoá vật thể và phi vật thể. Trong đó những di sản văn hoá phi vật thể được xác định “ sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác ” và di sản văn hoá vật thể được điều chỉnh trong luật này được xác định “ sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ”.
Theo đó lễ hội nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng là di sản văn hoá phi vật thể, Việc bảo vệ và tạo điều kiện để phát huy lễ hội truyền thống được quy định như sau: “ Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hoá của các lễ hội truyền thống, bài trừ hủ tục và chống các biểu hiện tiêu cực, thương mại hoá trong tổ chức và hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội truyền thống phải theo quy định của pháp luật ”.
Trong Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội có quy định khi tổ chức lễ hội các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về di sản văn hoá và Quy chế tổ chức lễ hội của Bộ Văn hóa Thông tin. Quy chế cũng quy định cụ thể những yêu cầu đối với tổ chức lễ hội như:
“ 1. Không trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc; không được thực hiện các hoạt động mê tín dị đoan như xem số, xem bói, xóc thẻ, yểm bùa, trừ tà và các hình thức mê tín dị đoan khác.
2. Không gây mất trật tự, an ninh xã hội; không lợi dụng để truyền đạo trái phép và có các hoạt động chia rẽ đoàn kết dân tộc.
3. Không làm cản trở giao thông và các hoạt động công cộng.
4. Không tổ chức hoặc tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức.
5. Giữ gìn sự yên tĩnh, hạn chế gây tiếng ồn vào ban đêm.”
Đồng thời quy định phải quản lý chặt chẽ, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm: “ Chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải có biện pháp quản lý chặt chẽ, ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm di tích, danh lam thắng cảnh; lừa đảo, trộm cắp của du khách; thương mại hoá và các hoạt động mê tín dị đoan trong lễ hội theo phạm vi và thẩm quyền của mình khi tổ chức lễ hội
Quy chế tố chức lễ hội ban hành kèm theo Quyết định số 39/2001 của Bộ Trưởng Bộ Văn hóa Thông tin quy định cụ thể các mục tiêu của việc tổ chức lễ hội, các loại hình lễ hội được điều chỉnh, quy định cụ thể các loại lễ hội phải được cấp phép tổ chức và các loại không phải xin phép, quy định thủ tục xin phép tổ chức lễ hội, quy định trong việc tổ chức lễ hội như: Ban Tổ chức lễ hội, các hành vi bị cấm tại lễ hội…Quy chế tổ chức lễ hội là cơ sở pháp lý để cho các cơ quan quản lý Nhà nước về lễ hội thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, đảm bảo cho các lễ hội diễn ra theo đúng mục đích và nhu cầu của cộng đồng.
Nghị định số 56/2006/NĐ-CP của Chính Phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hoá – thông tin có quy định các mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm tại lễ hội như: Phạt từ 300.000 đồng đến 1000.000 đồng đối với việc sử dụng âm thanh quá mức độ ồn tối đa để tuyên truyền, quảng bá các loại trò chơi, dịch vụ ở lễ hội; phạt tiền từ 500.000 đồng đến 2000.000 đồng trong trường hợp tổ chức lễ hội phải báo cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà không báo cáo hoặc có báo cáo nhưng không được cơ quan có thẩm quyền đồng ý mà vẫn tổ chức; phạt tiền từ 5000.000 đồng đến 15 000.000 đồng đối với trường hợp tổ chức lễ hội theo quy định phải có giấy phép mà không có…Ngoài ra Nghị định cũng quy định cụ thể các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm. Như vậy, Nghị định là cơ sở để kiểm tra và xử lý vi phạm trong tổ chức và quản lý lễ hội.
Trong Quy chế Hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 11/2006/NĐ-CP của Chính Phủ có quy định về việc tổ chức lễ hội như các lễ hội phải xin phép, các lễ hội không phải xin phép, hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội…
Như vậy, vấn đề tổ chức và quản lý lễ hội được Nhà nước rất chú trọng. Các cơ quan quản lý về văn hoá nói chung và quản lý về lễ hội truyền thống nói riêng đã có nhiều văn bản để thực hiện quản lý và tổ chức các lễ hội. Từ việc quy định các điều kiện tổ chức, cấp phép, các hành vi bị cấm đến các quy định về xử phạt hành chính đều được quy định rõ tại các văn bản đã kể trên. Tuy nhiên việc tổ chức và quản lý lễ hội còn có quá nhiều văn bản điều chỉnh, chẳng hạn như việc tổ chức và quản lý lễ hội đã có quy chế riêng của Bộ Văn hoá Thông tin nhưng vẫn có các văn bản khác quy định về tổ chức lễ hội như đã nêu ở trên. Điều này làm chức năng quản lý chồng chéo nhau, gây ảnh hưởng đến quản lý về lễ hội của các cơ quan cấp dưới. Chẳng hạn như trong Quy chế tổ chức lễ hội có quy định các lễ hội phải có sự xin phép của UBND cấp tỉnh như: lễ hội được tổ chức lần đầu; lễ hội lần đầu được khôi phục sau nhiều năm gián đoạn; lễ hội tổ chức định kỳ nhưng có thay đổi nội dung, thời gian, địa điểm so với truyền thống; lễ hội du nhập từ nước ngoài vào do người nước ngoài hoặc người Việt Nam tổ chức; những lễ hội không phải là lễ hội Đền Hùng ( Phú Thọ), lễ hội Chùa Hương ( Hà Tây ), lễ hội Phủ Dầy ( Nam Định ), lễ hội Xuân núi Bà Đen ( Tây Ninh ), lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam ( An Giang ); lễ hội tôn giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc trong khuôn viên cơ sở thờ tự nhưng chưa đăng ký tổ chức hàng năm theo quy định của pháp luật. Nhưng quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng lại không quy định những lễ hội không phải là lễ hội Đền Hùng, lễ hội Chùa Hương, lễ hội Phủ Dầy, lễ hội Xuân núi Bà Đen,…; lễ hội tôn giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc trong cơ sở thờ tự nhưng chưa đăng ký tổ chức thường xuyên theo quy định của pháp luật phải có sự xin phép của UBND cấp Tỉnh. Sự khác biệt trong quy định của các văn bản điều chỉnh lễ hội dẫn đến hiện tượng không đồng nhất trong tổ chức thực hiện ở cấp dưới.
4.2 Hệ thống quản lý về lễ hội ở nước ta
- Sơ đồ hệ thống quản lý Nhà nước về văn hoá – lễ hội
- Chức năng quản lý cụ thể:
– Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất, là cơ quan có quyền ban hành luật di sản văn hoá là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất để quản lý Nhà nước đối với văn hoá nói chung và văn hoá truyền thống nói riêng trong đó có lễ hội truyền thống. Đồng thời Quốc Hội cũng thực hiện chức năng giám sát của mình đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội trong phạm vi cả nước qua các đại biểu Quốc Hội cũng như các cơ quan chuyên trách của Quốc Hội, từ đó Quốc Hội có yêu cầu các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống theo đúng quy định của pháp luật.
– Chính Phủ là cơ quan quản lý hành chính cao nhất của nước ta, đối với lĩnh vực quản lý lễ hội Chính Phủ là cơ quan ban hành các chủ trương, các chính sách và văn bản chỉ đạo nói chung về việc quản lý đối với lễ hội. Các chính sách này của Chính Phủ sẽ là cơ sở để các cơ quan chuyên môn quản lý về lễ hội truyền thống cấp dưới cụ thể hoá thành các văn bản cụ thể hơn. Như vậy Chính Phủ ở đây có chức năng định hướng về mặt chỉ đạo cũng như hỗ trợ về mặt chính sách đối với việc quản lý lễ hội truyền thống của các cơ quan chuyên môn cấp dưới.
– Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn của Chính Phủ chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về lễ hội nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng. Bộ là cơ quan tham mưu cho Chính Phủ ban hành các chính sách quản lý đối với lễ hội, trình Chính Phủ phê duyệt các chủ trương cũng như các chính sách lớn đối với lễ hội. Đồng thời, Bộ là cơ quan quản lý Nhà nước về văn hoá trong đó có lễ hội truyền thống. Trong đó chức năng quản lý lễ hôi của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch được thể hiện như sau: Bộ ban hành Quy chế tổ chức và quản lý lễ hội làm cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lễ hội thống nhất từ Trung ương tới cơ sở; Phân công chức năng cho cấp dưới thực hiện chức năng quản lý đối với lễ hội, tức phân cấp quản lý, chẳng hạn như chức năng quản lý lễ hội của Bộ do Cục Văn hoá Thông tin cơ sở chịu trách nhiệm.
Còn các địa phương thực hiện việc quản lý đối với các lễ hội tuân theo Quy chế tổ chức và quản lý lễ hội do Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch ban hành; Thực hiện chức năng kiểm tra giám sát hoạt động quản lý nhà nước về lễ hội theo quy định của Chính Phủ và Quy chế của Bộ đã ban hành, đồng thời xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm theo quy định tại Nghị định 56/2006/NĐ-CP của Chính Phủ về xử phạt hành chính trong hoạt động văn hoá – thông tin ; Chỉ đạo, điều hành các cơ quan quản lý cấp dưới như UBND cấp Tỉnh, Sở Văn hoá Thể thao và Du Lịch về chuyên môn trong việc quản lý đối với lễ hội theo sự phân cấp quản lý trong Quy chế tổ chức và quản lý lễ hội mà Bộ đã ban hành.
– Hội đồng nhân dân các cấp có chức năng thông qua các chủ trương lớn về việc duy trì và phát triển các lễ hội truyền thống tại địa phương, thông qua các chương trình, các hoạt động cụ thể của UBND cùng cấp về việc tổ chức và quản lý lễ hội tại địa phương. Đồng thời thực hiện chức năng giám sát đối với hoạt động tổ chức và quản lý lễ hội của các cơ quan quản lý cùng cấp là UBND và các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà nước về văn hoá của UBND cùng cấp.
– Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý hành chính tại địa phương, chịu trách nhiệm chỉ đạo điều hành, quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền thống trong địa bàn tỉnh. Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh ban hành các chính sách đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội trong địa bàn toàn tỉnh trên cơ sở chính sách chung của cơ quan quản lý cấp trên là Chính Phủ và Bộ Văn hoá Thể thao và Du Lịch, đồng thời phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Bên cạnh đó, UBND cấp Tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các lễ hội theo sự phân công trong quy chế của Bộ Văn hoá – Thông tin ( cũ ) đã ban hành, cụ thể là cấp phép tổ chức lễ hội theo thẩm quyền và tiến hành kiểm tra giám sát và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trong tổ chức và quản lý lễ hội theo Nghị định số 56/2006/NĐ-CP của Chính Phủ về xử phạt hành chính trong hoạt động văn hoá – thông tin.
-Sở Văn hoá – Thông tin nay là Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu cho UBND ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quản lý về lễ hội, các chính sách đối với việc tổ chức lễ hội, thực hiện chức năng xử lý vi phạm theo thẩm quyền và chỉ đạo về mặt chuyên môn cho các cơ quan cấp dưới về quản lý lễ hội. Đồng thời là cơ quan thực hiện sự quản lý ngành của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
-Uỷ ban nhân dân cấp Huyện là cơ quan quản lý hành chính trên địa bàn huyện, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lễ hội theo sự phân công, phân cấp trong Quy chế tổ chức và quản lý lễ hội.
-Phòng Văn hoá – Thông tin là cơ quan chuyên môn của UBND cấp Huyện thực hiện chức năng tham mưu cho Uỷ ban Nhân dân huyện ban hành chính sách cũng như các văn bản chỉ đạo điều hành về quản lý lễ hội; thực hiện chức năng thẩm định hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội theo thẩm quyền để UBND cấp huyện cấp phép tổ chức lễ hội trong phạm vi quản lý lễ hội đã được phân cấp; hướng dẫn nghiệp vụ quản lý lễ hội đối với UBND cấp xã và cán bộ văn hoá của xã;
-Uỷ ban Nhân dân cấp xã: là cơ quan hành chính ở cơ sở, thực hiện chức năng quản lý lễ hội theo sự phân công của Quy chế Tổ chức và quản lý lễ hội, giúp UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý lễ hội là cán bộ văn hoá xã.
Như vậy, quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống nói riêng và lễ hội nói chung được phân công chức năng nhiệm vụ nhất định. Trong đó việc ban hành luật để điều chỉnh việc quản lý đối với các lĩnh vực văn hóa trong đó có lễ hội thuộc về Quốc Hội, việc ban hành các chính sách quản lý nói chung thuộc về Chính Phủ, thực hiện chức năng quản lý về mặt chuyên môn, hướng dẫn chuyên môn thuộc chức năng của các cơ quan chuyên môn quản lý về văn hoá từ trung ương tới địa phương theo thẩm quyền, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước cụ thể là ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành là chức năng của các cơ quan hành chính có thẩm quyền chung ở địa phương là Uỷ ban nhân dân các cấp. Còn HĐND các cấp là cơ quan thông qua các chủ trương, chính sách của UBND cùng cấp về tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống. Việc phân công chức năng quản lý lễ hội cụ thể giữa các cơ quan là cơ sở cho hoạt động quản lý diễn ra đúng mục tiêu và tránh hiện tượng chồng chéo trong quản lý.
The post Vai trò của quản lý nhà nước trong duy trì và phát triển văn hóa truyền thống appeared first on Luận văn 1080.
from Luận văn 1080 http://bit.ly/2IlDS2C
via gqrds
No comments:
Post a Comment