Năng lực quản trị tài chính doanh nghiệp là khả năng điều hành các chính sách tài chính, sử dụng thông tin phản ánh chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp để phân tích điểm mạnh, điểm yếu.
1. Khái niệm về năng lực quản trị tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, biến động rủi ro trở thành thuộc tính của nền kinh tế trong kỷ nguyên mới. Như vậy, quản trị tài chính cho doanh nghiệp ngày hôm nay không chỉ là vấn đề kỹ thuật tính toán lợi hại, lời lỗ mà là tương lai, một tương lai không còn giống như những gì mà các nhà kinh doanh vẫn hình dung, một tương lai được tư duy lại trong cái sự nhìn mới về sự biến động làm nên hiệu quả.
Năng lực quản trị tài chính doanh nghiệp là khả năng điều hành các chính sách tài chính, sử dụng thông tin phản ánh chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp để phân tích điểm mạnh, điểm yếu. Từ đó đưa ra các quyết định tài chính, tổ chức thực hiện các quyết định đó, nhằm đạt được mục tiêu tài chính của doanh nghiệp. Đó là tối đa hóa lợi nhuận, không ngừng tăng cường giá trị doanh nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Để nâng cao năng lực quản trị tài chính trong doanh nghiệp tức đòi hỏi phải thực hiện tốt các vấn đề sau :
– Nâng cao năng lực tài chính của cán bộ công nhân viên.
– Ra quyết định tài chính kịp thời, chính xác.
– Thường xuyên lập kế hoạch tài chính
– Quản lý nguồn vốn có hiệu quả
Có thể khẳng định, năng lực quản trị tài chính là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
2. Nội dung quản trị tài chính trong doanh nghiệp
2.1 Các quyết định tài chính
Giá trị của một quyết định tài chính của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của ba quyết định tài chính:
– Quyết định đầu tư
– Quyết định tài trợ
– Quyết định phân phối lợi nhuận.
2.1.1 Quyết định đầu tư
Quyết định đầu tư là quyết định quan trọng nhất vì nó tạo ra giá trị cho doanh nghiệp. Một quyết định đầu tư đúng đắn sẽ góp phần gia tăng giá trị doanh nghiệp, qua đó gia tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Ngược lại một quyết định đầu tư sai sẽ làm tổn thất giá trị tài sản của doanh nghiệp, qua đó làm giảm giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Quyết định đầu tư là những quyết định liên quan đến (1) tổng giá trị tài sản và giá trị từng bộ phận tài sản (tài sản lưu động và tài sản cố định) cần có và (2) mối quan hệ cân đối giữa các bộ phận tài sản trong doanh nghiệp. Có thể liệt kê một số quyết định đầu tư chủ yếu như sau:
– Quyết định đầu tư tài sản lưu động bao gồm: quyết định tồn quỹ, quyết định tồn kho, quyết định chính sách bán chịu hàng hóa, quyết định đầu tư tài chính ngắn hạn.
– Quyết định đầu tư tài sản cố định bao gồm: quyết định mua sắm TSCĐ mới, quyết định thay thế TSCĐ cũ, quyết định đầu tư dự án, quyết định đầu tư tài chính dài hạn.
– Quyết định quan hệ cơ cấu giữa đầu tư TSLĐ và TSCĐ bao gồm: quyết định sử dụng đòn bẩy hoạt động, quyết định điểm hòa vốn.
2.1.2 Quyết định tài trợ
Quyết định về nguồn tài trợ gắn liền với quyết định lựa chọn loại nguồn vốn nào cung cấp cho việc mua sắm tài sản, nên sử dụng vốn chủ sở hữu hay vốn vay, nên dùng vốn vay ngắn hạn hay dài hạn. Ngoài ra quyết định về nguồn vốn còn xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận để tái đầu tư và lợi
nhuận để phân chia cho các cổ đông. Tiếp theo, các nhà quản trị tài chính phải quyết định làm thế nào để huy động được các nguồn vốn đó. Cụ thể có thể liệt kê một số quyết định về nguồn vốn như sau:
– Quyết định huy động nguồn vốn ngắn hạn bao gồm: Quyết định vay ngắn hạn hay quyết định sử dụng tín dụng thương mại, quyết định vay ngắn hạn ngân hàng hay sử dụng tín phiếu công ty.
– Quyết định huy động nguồn vốn dài hạn bao gồm: Quyết định nợ dài hạn hay vốn cổ phần, quyết định vay ngân hàng hay phát hành trái phiếu công ty, quyết định sử dụng vốn cổ phần phổ thông hay cổ phần ưu đãi.
2.1.3 Chính sách phân phối lợi nhuận
Chính sách cổ tức ấn định mức lợi nhuận của công ty được đem phân phối như thế nào. Lợi nhuận sẽ được giữ lại để tái đầu tư cho công ty hay được chi trả cho các cổ đông. Lợi nhuận giữ lại là một nguồn quan trọng tài trợ quan trọng cho công ty cổ phần. Mặc dù việc phân chia giữa phát hành cổ phần mới và lợi nhuận giữ lại có xu hướng thay đổi theo thời gian, lợi nhuận giữ lại là nguồn vốn cổ phần quan trọng của công ty..
– Chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động
Chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động xác nhận rằng một doanh nghiệp nên giữ lại lợi nhuận khi nào mà doanh nghiệp có các cơ hội đầu tư hứa hẹn các tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi mà các cổ đông mong đợi. Nếu doanh nghiệp có thể đầu tư lợi nhuận của mình để đạt được tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi mong đợi mà các cổ đông kỳ vọng thì doanh nghiệp không nên chi trả cổ tức bởi lẽ việc chi trả cổ tức sẽ dẫn đến kết cục là doanh nghiệp hy sinh các cơ hội đầu tư có thể chấp nhận được hoặc phải huy động thêm vốn cổ phần cần thiết từ các thị trường vốn bên ngoài tốn kém hơn nhiều so với lợi nhuận giữ lại.
Tuy nhiên, có những chứng cứ mạnh mẽ cho thấy rằng hầu hết các doanh nghiệp cố gắng duy trì một chính sách chi trả cổ tức tương đối ổn định theo thời gian. Điều này không có nghĩa là các doanh nghiệp đã bỏ qua những nguyên lý về chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động trong việc thực hành các quyết định phân phối bởi vì cổ tức có thể được duy trì ổn định hằng năm theo hai cách:
– Doanh nghiệp có thể giữ lại lợi nhuận với tỷ lệ khá cao trong những năm có nhu cầu vốn cao. Nếu công ty tiếp tục tăng trưởng, các giám đốc có thể tiếp tục thực hiện chiến lược này mà không nhất thiết phải giảm cổ tức.
– Doanh nghiệp có thể vay vốn cho nhu cầu vốn mà mình cần và do đó tăng tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần lên một cách tạm thời để tránh giảm cổ tức. Do chi phí sử dụng vốn vay dài hạn thấp hơn cho một số lượng lớn các nguồn vốn vay dài hạn cho nên vốn vay dài hạn có khuynh hướng được huy động với một số lượng đáng kể. Nếu doanh nghiệp có nhiều cơ hội đầu tư tốt trong suốt một năm nào đó thì chính sách vay nợ sẽ thích hợp hơn so với việc cắt giảm cổ tức. Doanh nghiệp cũng cần giữ lại lợi nhuận trong những năm sắp tới để đẩy tỷ số nợ trên vốn cổ phần về mức thích hợp.
– Chính sách cổ tức bằng tiền mặt
Có nhiều bằng chứng cho thấy hầu hết các doanh nghiệp và các cổ đông thích chính sách cổ tức tương đối ổn định hơn. Có nhiều lý do tại sao các nhà đầu tư thích cổ tức ổn định. Chẳng hạn, nhiều nhà đầu tư cảm thấy các thay đổi cổ tức có nội dung hàm chứa thông tin – họ đánh đồng các thay đổi trong mức cổ tức của một doanh nghiệp với khả năng sinh lời. Một cắt giảm cổ tức có thể được diễn dịch như một tín hiệu là tiềm năng lợi nhuận dài hạn của doanh nghiệp đã sụt giảm. Tương tự một gia tăng trong lợi nhuận được coi như một minh chứng của dự kiến rằng lợi nhuận tương lai sẽ gia tăng.
Ngoài ra, nhiều cổ đông cần và lệ thuộc vào một dòng cổ tức không đổi cho các nhu cầu lợi nhuận tiền mặt của mình. Dù họ có thể bán bớt một số cổ phần như một nguồn thu nhập hiện tại khác nhưng do chi phí giao dịch và các lần bán với lô lẻ cho nên phương án này không thể thay thế một cách hoàn hảo cho lợi nhuận cổ tức đều đặn.
Một vài giám đốc tài chính thấy rằng một chính sách cổ tức tăng trưởng và ổn định thường có xu hướng làm giảm sự bất trắc của nhà đầu tư về dòng cổ tức tương lai. Họ tin rằng các nhà đầu tư sẽ trả một giá cao hơn cho cổ phần của một doanh nghiệp chi trả cổ tức ổn định, do đó làm giảm chi phí sử dụng vốn cổ phần của doanh nghiệp.
– Chính sách chi trả cổ tức khác
Một vài doanh nghiệp chấp nhận một chính sách cổ tức có tỷ lệ chi trả không đổi. Nếu lợi nhuận doanh nghiệp này thay đổi nhiều từ năm này sang năm khác, cổ tức cũng dao động theo.
Các doanh nghiệp khác chọn chính sách chi trả một cổ tức nhỏ hàng quý cộng với cổ tức thưởng thêm vào cuối năm. Chính sách này đặc biệt thích hợp cho một doanh nghiệp có thành tích lợi nhuận biến động, và nhu cầu tiền mặt biến động giữa năm này với năm khác hay cả hai. Ngay cả khi lợi nhuận thấp, các nhà đầu tư vẫn có thể trông cậy vào việc chi trả cổ tức đều đặn của doanh nghiệp. Khi lợi nhuận cao, và không có nhu cầu sử dụng ngay nguồn tiền dôi ra này, doanh nghiệp công bố một cổ tức thưởng cuối năm. Chính sách này cho ban điều hành một khả năng linh hoạt để giữ lại lợi nhuận khi cần mà vẫn thỏa mãn được các nhà đầu tư muốn nhận một mức chi trả cổ tức bảo đảm.
Bên cạnh việc lựa chọn và ra quyết định tài chính, quản lý nguồn vốn có hiệu quả cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
2.2 Quản trị nguồn vốn
2.2.1 Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh
Trong mọi nền kinh tế – xã hội, vốn là một yếu tố rất quan trọng và có tính chất quyết định cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ xã hội nói chung.
Vốn là tiền đề của mọi hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và là một phạm trù tài chính, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được quan niệm như là một khối lượng giá trị được tạo lập và đưa vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Như vậy, vốn kinh doanh được biểu hiện bằng giá trị và đại diện cho một khối lượng tài sản nhất định. Giữa vốn và tiền có mối quan hệ với nhau. Muốn có vốn thì phải có tiền, song có tiền thậm chí những khoản tiền lớn cũng không phải là vốn. Một khoản tiền được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp khi đáp ứng các điều kiện như tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực, tiền phải được tích tụ và tập trung đủ để đầu tư cho một dự án; tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời.
Đứng trên mỗi góc độ khác nhau sẽ có cách phân loại vốn khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp.
– Căn cứ vào đặc điểm vận động của vốn thì vốn của doanh nghiệp gồm có vốn cố định và vốn lưu động.
– Theo nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp được chia thành vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
– Theo yêu cầu đầu tư và sử dụng, vốn được chia thành vốn trong doanh nghiệp và vốn đầu tư ra bên ngoài.
2.2.2 Huy động vốn của doanh nghiệp
– Nguồn vốn tự bổ xung: Bao gồm phần lợi nhuận giữ lại sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và toàn bộ số khấu hao để tái đầu tư TSCĐ.
Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có được thông qua hình thức hợp tác kinh doanh hoặc liên kết với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước để có thêm một khoản vốn nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
– Huy động vốn trên thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán và giấy ghi nợ trung và dài hạn. Đây là nơi cung cấp các nguồn tài trợ và là công cụ điều tiết rất hiệu quả các nguồn vốn của toàn xã hội.
Phát hành trái phiếu: Trái phiếu là giấy nhận nợ do doanh nghiệp phát hành khi vay vốn người khác để kinh doanh, trong đó có ghi một trị giá vay vốn nhất định, kỳ trả lãi và kỳ hạn thanh toán nợ. Theo định kỳ người có trái phiếu thu được một số tiền lợi tức cố định do doanh nghiệp trả. Đến kỳ hạn thanh toán doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải thanh toán số tiền vay, chuộc lại trái phiếu.
Phát hành cổ phiếu: Là một cách gọi thêm vốn cổ phần của công ty nhằm tăng thêm vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Cổ phiếu là giấy chứng nhận góp vốn cổ phần để tạo lập vốn cho doanh nghiệp, cho công ty cổ phần và chứng nhận quyền nhận thu nhập từ lợi nhuận của công ty, tức là quyền nhận lợi tức cổ phần (cổ tức). Người mua cổ phiếu không phải là người cho vay vốn mà là đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh. Vốn đã đầu tư thì không rút ra trừ khi doanh nghiệp giải tán và thanh lý doanh nghiệp.
– Huy động vốn từ các tổ chức tài chính trung gian:
Ngân hàng thương mại: Là tổ chức kinh doanh tiền tệ qua hệ thống ngân hàng. Các nguồn vốn nhàn rỗi được huy động, sẽ cung cấp cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu dưới hình thức cho vay nhằm phát huy tối đa hiệu quả đồng vốn toàn xã hội.
– Các quỹ đầu tư: Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian. Đây là loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Các quỹ này dùng vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư trung và dài hạn thông qua các hình thức mua cổ phần, góp vốn liên doanh, cho vay …với mục đích tạo ra lợi nhuận.
– Công ty tài chính: Công ty tài chính là một trong những định chế tài chính trung gian. Công ty tài chính không nhận tiền gửi thường xuyên như các ngân hàng mà công ty chỉ sử dụng vốn của công ty để cho nhiều đối tượng khác vay, khi các đối tượng đó có nhu cầu về vốn.
Ngoài những nguồn vốn trên, doanh nghiệp còn có thể huy động vốn từ những nguồn khác: mua trả chậm các loại máy móc thiết bị, vay từ cán bộ công nhân viên, thuê tài chính. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể sử dụng tạm thời nguồn vốn từ những khoản phải trả khác nhưng chưa đến kỳ hạn trả mà doanh nghiệp có thể tạm thời sử dụng không phải tính lãi và theo nguyên tắc có hoàn trả khi đến kỳ hạn chi trả như các khoản phải thanh toán với công nhân viên, nộp thuế cho Nhà nước…
2.2.3 Cấu trúc vốn
Cơ cấu vốn có ảnh hưởng đến lợi nhuận cho cổ đông nên công ty cần thiết hoạch định cơ cấu vốn mục tiêu. Cơ cấu vốn mục tiêu là sự kết hợp giữa nợ, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường trong tổng nguồn vốn của công ty theo mục tiêu đề ra. Hoạch định cơ cấu chính sách vốn có liên quan đến việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro: Sử dụng nợ nhiều làm gia tăng rủi ro nhưng tỷ lệ nợ cao đưa đến lợi nhuận kỳ vọng cao.
Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn cân đối được lợi nhuận và rủi ro và do đó tối đa hóa giá trị cổ phiếu của công ty.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa cơ cấu vốn:
– Rủi ro của doanh nghiệp : Rủi ro phát sinh đối với tài sản của công ty ngay cả khi công ty không sử dụng nợ. Công ty nào có rủi ro doanh nghiệp càng lớn thì càng hạ thấp tỷ lệ nợ tối ưu.
– Thuế thu nhập công ty: Do lãi vay là yếu tố chi phí trước thuế nên sử dụng nợ giúp công ty tiết kiệm được thuế. Tuy nhiên, điều này sẽ không còn ý nghĩa gì nữa đối với những công ty nào được ưu đãi hay vì lý do đó mà thuế suất thuế thu nhập công ty ở mức thấp.
– Sự chủ động về tài chính: Sử dụng nợ nhiều lần làm giảm đi sự tự chủ về mặt tài chính đồng thời làm xấu đi tình hình bảng cân đối tài sản khiến cho những nhà cung cấp vốn ngần ngại cho vay hay đầu tư vốn vào công ty.
– Phong cách và thái độ của ban quản lý công ty: Một số ban giám đốc thận trọng hơn những người khác, do đó ít sử dụng nợ hơn trong tổng nguồn vốn của công ty.
2.2.4 Chi phí sử dụng vốn
Chi phí sử dụng vốn là cái giá mà doanh nghiệp phải trả cho việc sử dụng nguồn tài trợ, đó là nợ vay, cổ phần ưu đãi, cổ phần thường, thu nhập giữ lại và doanh nghiệp sử dụng những nguồn tài trợ này để tài trợ cho các dự án đầu tư mới.
Chi phí sử dụng vốn vay dài hạn (trái phiếu) rD : là chi phí phải được tính sau thuế khi doanh nghiệp gia tăng nguồn tài trợ dài hạn bằng nợ vay. Để thuận lợi, chúng ta giả định rằng nguồn vốn của doanh nghiệp được huy động thông qua phát hành trái phiếu. Trái phiếu được phát hành là loại trái phiếu trả lãi hằng năm.
Chi phí sử dụng vốn vay trước thuế có thể được tính toán bằng cách dựa trên dòng tiền của trái phiếu đó và từ đó xác định tỷ suất sinh lợi nội bộ của trái phiếu này.
Chi phí sử dụng vốn cổ phần ưu đãi: Cổ phần ưu đãi được xem như một loại nguồn vốn chủ sở hữu đặc biệt trong một doanh nghiệp. Những cổ đông ưu đãi sẽ nhận được cổ tức cố định như đã công bố với thứ tự ưu tiên trước khi lợi nhuận thuần được phân phối cho các cổ đông nắm giữ cổ phần thường.
Chi phí sử dụng vốn cổ phần thường: là tỷ suất sinh lợi trên một cổ phần do các nhà đầu tư trên thị trường vốn kỳ vọng. Có hai dạng tài trợ dưới dạng cổ phần thường (1) thu nhập giữ lại và (2) phát hành mới cổ phần thường.
Chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC)
Chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) là chi phí bình quân gia quyền của tất cả các nguồn tài trợ dài hạn mà một doanh nghiệp đang sử dụng.
2.3 Quản trị rủi ro trong doanh nghiệp
Do tính chất bất ổn của thị trường cộng thêm những rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, quản trị rủi ro trở thành một hoạt động không thể thiếu trong quản trị doanh nghiệp hiện nay.
2.3.1 Khái niệm quản trị rủi ro
Rủi ro là tình huống mà tại đó xảy ra những sự cố dẫn đến việc công ty bị thua lỗ hay thậm chí phá sản. Công ty luôn tìm cách né tránh rủi ro hay giảm rủi ro đến mức tối thiểu (nếu có thể) trong mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Một công ty khi bắt đầu kinh doanh đã chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định, họ không phòng ngừa rủi ro mà xác định mức độ rủi ro hiện tại so với rủi ro mong muốn. Khi đó họ tập trung mọi nguồn lực vào công việc kinh doanh chính. Một vài công ty sử dụng công cụ phái sinh như là một hình thức đầu cơ dựa trên dự báo của họ. Nếu rủi ro xảy ra không liên quan đến hoạt động chính yếu của công ty và nếu dự báo tồi, họ khó giải thích chi phí cho việc đầu cơ này cho cổ đông.
Quản trị rủi ro là hoạt động xác định mức độ rủi ro mà công ty mong muốn, nhận diện rủi ro hiện nay đang gánh chịu và sử dụng các công cụ phái sinh hoặc các công cụ tài chính khác để điều chỉnh mức độ rủi ro thực sự theo mức độ rủi ro mong muốn. Có thể nói quản trị rủi ro đã tạo ra một cuộc cách mạng trong dịch vụ tư vấn và phát triển các phần mềm phục vụ cho nhu cầu né tránh những rủi ro từ các yếu tố ngoại sinh của doanh nghiệp.
Trên thực tế, luôn có những ngờ vực về tính hiệu quả của việc sử dụng các công cụ phái sinh. Nhưng qua thời gian, các công cụ này dần dần được thừa nhận là công cụ tốt nhất để đối phó với những bất ổn ngày càng gia tăng cùng với cơn lốc hội nhập kinh tế thế giới. Quản trị rủi ro ngày nay không đơn thuần tập trung vào các công cụ phái sinh mà là một quá trình được gọi là quản trị rủi ro tài chính.
3.2.2 Phân loại rủi ro
Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là rủi ro có liên quan đến bản chất của các hoạt động sản xuất và kinh doanh dẫn đến sự không chắc chắn về lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) của doanh nghiệp. Những rủi ro thuộc về bản chất kinh doanh như trên là do có những yếu tố sau:
– Bản chất của doanh số bất ổn theo chu kỳ kinh doanh.
– Bản chất của bất ổn trong giá bán. Giá cả của một ngành công nghiệp càng cạnh tranh nhiều, rủi ro kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành đó càng lớn.
– Bản chất của bất ổn trong chi phí.
– Cạnh tranh trên thương trường: Sức mạnh thị trường của một doanh nghiệp càng lớn, rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp càng nhỏ. Khi đánh giá sức mạnh thị trường của một doanh nghiệp, nên xem xét không chỉ yếu tố cạnh tranh hiện tại doanh nghiệp đang phải đối phó mà nên xem xét cạnh tranh tương lai, nhất là cạnh tranh có thể phát sinh từ nước ngoài.
– Phạm vi đa dạng hoá sản phẩm. Nếu tất cả các yếu tố khác không đổi, các chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp càng được đa dạng hóa, EBIT của doanh nghiệp càng ít biến động.
– Đầu tư tích lũy mà doanh nghiệp đã thực hiện qua thời gian.
– Độ nghiêng của đòn bẩy kinh doanh: Một doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy kinh doanh càng nhiều, EBIT sẽ càng nhạy cảm với các thay đổi trong doanh số. Độ nghiêng của đòn bẩy kinh doanh là tác động số nhân do việc doanh nghiệp sử dụng các chi phí hoạt động cố định.
Rủi ro kinh doanh có các yếu tố của rủi ro hệ thống lẫn không hệ thống. Một phần của tính khả biến trong EBIT bắt nguồn từ rủi ro kinh doanh không thể đa dạng hóa. Ngược lại, tính khả biến do các quyết định quản trị đặc thù như đa dạng hóa các mặt hàng là không hệ thống.
Rủi ro tài chính
Rủi ro tài chính chỉ tính khả biến tăng thêm của thu nhập mỗi cổ phần và xác suất mất khả năng chi trả xảy ra khi một doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài trợ có chi phí tài chính cố định như nợ và cổ phần ưu đãi trong cấu trúc vốn của mình. Việc gia tăng sử dụng nợ và cổ phần ưu đãi làm tăng các chi phí tài chính cố định của doanh nghiệp, đến lượt mình các chi phí này lại làm tăng mức EBIT mà doanh nghiệp phải đạt được để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính và duy trì hoạt động. Rủi ro tài chính bao gồm:
– Rủi ro thị trường:
Do sự gắn kết của thế giới ngày càng chặt chẽ, sự biến động mỗi mắt xích đều ảnh hưởng đến cả thế giới. Những biến động không dự đoán được của tỷ giá, lãi suất và giá hàng hóa có thể đẩy một doanh nghiệp được điều hành tốt vào tình trạng phá sản.
– Rủi ro tỷ giá: Có ba loại nhạy cảm liên quan đến rủi ro tỷ giá là độ nhạy cảm giao dịch, độ nhạy cảm kinh tế và độ nhạy cảm chuyển đổi. Độ nhạy cảm giao dịch phát sinh khi có những thay đổi trong giá hàng hóa, lãi suất và tỷ giá, và điều này sẽ làm thay đổi giá trị của một khoản tiền thu được hoặc các khoản chi phí. Độ nhạy cảm kinh tế xuất hiện khi có những thay đổi trong tỷ giá hối đoái hay lãi suất hoặc giá cả hàng hóa, và điều này sẽ làm tăng thêm các địch thủ cạnh tranh mới. Độ nhạy cảm chuyển đổi phản ánh những thay đổi trong giá trị của công ty khi tài sản ở nước ngoài được chuyển sang nội tệ, hầu hết các công ty trên thế giới đều có một điểm chung đáng chú ý là họ không quản lý rủi ro chuyển đổi.
– Biến động lãi suất: Biến động lãi suất tạo áp lực tăng chi phí. Các doanh nghiệp có doanh thu thấp sẽ bị tác động bất lợi bởi lãi suất tăng lên và dễ dàng rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính.
– Biến động giá cả: Biến động giá cả có thể đẩy công ty được điều hành tốt vào tình trạng phá sản. Khi giá cả tăng, nguời tiêu dùng sẽ chuyển sang các sản phẩm thay thế.
– Rủi ro do sử dụng đòn bẩy tài chính:
Đòn bẩy tài chính có khả năng làm gia tăng tỷ suất sinh lợi mong đợi của vốn cổ phần nhưng cũng ngay lúc đó chúng sẽ đưa cổ đông tới một rủi ro lớn hơn: tỷ suất sinh lợi cao sẽ trở nên cao hơn nữa nhưng nếu tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư thấp thì tỷ suất sinh lợi mong đợi trên vốn cổ phần thậm chí càng thấp hơn.
2.3.2 Các công cụ quản trị rủi ro tài chính:
Phòng ngừa rủi ro có thể thực hiện khi có một hệ thống dự báo tốt. Tuy nhiên, do giá của các loại hàng hóa biến động một cách ngẫu nhiên trong thị trường mà không một công cụ nào có thể dự báo một cách chính xác. Vì vậy dự báo không thể giải quyết vấn đề rủi ro, người ta đã chuyển sang phương thức chuyển giao rủi ro. Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là các nhà đầu cơ.
Các công cụ phái sinh bao gồm: Bảo hiểm, thị trường kỳ hạn, thị trường giao sau, hoán đổi, quyền chọn… Sau đó, các công cụ này đã phát triển ở mức cao hơn là sự kết hợp của các giao dịch cơ bản lại với nhau hình thành những dạng phức tạp hơn.
– Bảo hiểm:
Hầu hết các doanh nghiệp mua bảo hiểm để đối phó lại với nhiều loại rủi ro. Các rủi ro đó có thể là nhà máy bị hỏa hoạn thiêu hủy, xe của doanh nghiệp bị tai nạn… Khi một doanh nghiệp mua bảo hiểm, đơn giản họ chuyển đổi rủi ro đó cho các công ty bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm có một số lợi thế khi gánh chịu rủi ro.
Đầu tiên họ có kinh nghiệm đáng kể trong việc bảo hiểm các rủi ro tương tự, vì vậy họ có thể ước tính xác suất tổn thất và giá trị của rủi ro đó chính xác hơn.
Thứ hai, họ lành nghề trong việc tư vấn cho các doanh nghiệp những biện pháp để làm giảm thiểu rủi ro, và họ có thể đưa ra một khoản phí bảo hiểm thấp hơn cho các doanh nghiệp áp dụng các lời khuyên của họ.
Thứ ba, một công ty bảo hiểm có thể phân tán rủi ro bằng cách nắm giữ một danh mục các hợp đồng bảo hiểm được đa dạng hóa. Số tiền bồi thường nếu có cho một hợp đồng bảo hiểm riêng lẻ có thể không chắc chắn, nhưng cho một danh mục các hợp đồng mà công ty bảo hiểm đang nắm giữ thì có thể rất ổn định. Dĩ nhiên, các công ty bảo hiểm không thể đa dạng hóa để tránh được hết các rủi ro kinh tế vĩ mô. Nhưng các doanh nghiệp dùng các hợp đồng bảo hiểm để giảm thiểu từng loại rủi ro đặc thù của họ và tìm cách khác để phòng ngừa các rủi ro vĩ mô. Các hợp đồng bảo hiểm trên đây là do các chuyên viên công ty bảo hiểm đưa ra. Nhưng đôi khi, doanh nghiệp có thể xây dựng các hợp đồng riêng của mình bằng cách sử dụng các hợp đồng quyền chọn.
– Phòng ngừa rủi ro qua thị trường kỳ hạn.
Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng giữa hai bên: người mua và người bán để mua hoặc bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thỏa thuận ngày hôm nay. Nếu vào ngày đáo hạn, giá thực tế cao hơn giá thỏa thuận, người sở hữu hợp đồng sẽ kiếm được lợi nhuận, nếu giá thấp hơn thì người sở hữu hợp đồng sẽ chịu một khoản lỗ.
Nếu giá thực tế vào ngày đáo hạn hợp đồng cao hơn giá mong đợi, rủi ro vốn có của công ty sẽ làm giảm giá trị công ty, nhưng sự sụt giảm này sẽ được đền bù bằng lợi nhuận của hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy, hợp đồng kỳ hạn này cung cấp một phòng ngừa rủi ro hoàn hảo.
Thị trường kỳ hạn là một thị trường lớn và rộng khắp trên toàn thế giới. Những thành viên của thị trường là các ngân hàng, các công ty và các chính phủ. Hai bên ký kết hợp đồng kỳ hạn phải đồng ý thực hiện nghĩa vụ với nhau. Tức là mỗi bên phải chấp nhận rủi ro tín dụng của bên kia.
– Phòng ngừa rủi ro qua thị trường gia ngay
Hợp đồng giao sau cũng là hợp đồng giữa hai bên – người mua và người bán để mua hoặc bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Các hợp đồng được giao dịch trên sàn giao dịch giao sau và chịu quá trình thanh toán hằng ngày. Người mua hợp đồng giao sau là người có nghĩa vụ mua hàng hóa vào một ngày trong tương lai, có thể bán hợp đồng trên thị trường giao sau. Điều này làm cho họ thoát khỏi nghĩa vụ mua hàng hóa. Ngược lại, người bán hợp đồng giao sau, là người có nghĩa vụ bán hàng hóa vào một ngày trong tương lai, có thể mua lại hợp đồng trong thị trường giao sau. Điều này làm cho họ thoát khỏi nghĩa vụ bán hàng.
Khác với thị trường kỳ hạn, thị trường giao sau sử dụng hai công cụ để loại bỏ rủi ro tín dụng. Thứ nhất, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng thông qua việc thanh toán đơn nhất vào ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị của các hợp đồng giao sau được thực hiện vào cuối ngày chúng được giao dịch. Như vậy hợp đồng giao sau có tính thanh toán tiền mặt, hoặc điều chỉnh theo thị trường hằng ngày.
Thứ hai, hợp đồng giao sau giúp làm giảm rủi ro không thanh toán là yêu cầu các thành viên tham gia thị trường thực hiện một khoản ký gửi gọi là khoản ký quỹ.
– Phòng ngừa rủi ro trên thị trường quyền chọn
Quyền chọn là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó cho người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào một ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán một sô tiền gọi là phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo các điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn thế.
– Hoán đổi – SWAP
Hoán đổi là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền. Ví dụ một bên đối tác hiện đang nhận được một dòng tiền từ một khoản đầu tư nhưng lại thích một loại đầu tư khác với dòng tiền không giống với dòng tiền của khoản đầu tư họ đang thụ hưởng. Bên đối tác này liên lạc với dealer hoán đổi, thường là một công ty hoạt động trên thị trường OTC, họ sẽ thực hiện vị thế đối nghịch trong giao dịch. Tuỳ thuộc vào sau đó giá hoặc lãi suất thay đổi như thế nào, một bên sẽ thu được lợi nhuận hay bị lỗ. Lãi của bên này chính là khoản lỗ của bên kia.
2.4 Lập kế hoạch tài chính.
Lập kế hoạch tài chính rất cần thiết bởi vì các quyết định đầu tư, tài trợ và cổ tức luôn tương tác lẫn nhau và không nên được xem xét riêng lẻ. Kế hoạch tài chính cũng giúp các Giám đốc tài chính tránh được các bất ngờ và chủ động phản ứng như thế nào khi những sự kiện bất ngờ không thể tránh được xảy ra.Kế hoạch tài chính liên quan chặt chẽ với kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Một tập hợp các dự kiến tài chính sẽ ít có giá trị cho hoạt động kinh doanh nếu các cấp điều hành không suy nghĩ về các quyết định sản xuất và tiếp thị cần thiết để làm cho các dự kiến này trở thành sự thực.
2.4.1 Các yêu cầu của việc lập kế hoạch có hiệu quả
Các yêu cầu để lập kế hoạch có hiệu quả tùy theo mục đích của kế hoạch và kết quả cuối cùng mong muốn. Có ba điểm đáng được nhấn mạnh khi lập kế hoạch tài chính:
– Dự báo.
Doanh nghiệp sẽ không bao giờ có được các dự báo hoàn toàn chính xác, vì nếu có thì việc lập kế hoạch sẽ không cần thiết đến như vậy. Vấn đề là doanh nghiệp cần phải dự báo một cách tốt nhất có thể được. Không nên giảm nhẹ tầm quan trọng của việc dự báo xuống thành một công việc máy móc. Để bổ sung các phán đoán của mình, các nhà dự báo dựa trên nhiều nguồn dữ liệu và các phương pháp dự báo khác nhau.
Bởi vì thông tin và nhân sự chuyên môn nằm rải rác trong doanh nghiệp, việc lập kế hoạch có hiệu quả đòi hỏi những thủ tục hành chính để bảo đảm không bỏ qua các thông tin này. Cũng vậy, đôi khi cần sự trợ giúp bên ngoài. Có một ngành hoạt động đang rất phát đạt, đó là các doanh nghiệp chuyên chuẩn bị các dự báo kinh tế vĩ mô và công nghiệp cho các doanh nghiệp sử dụng.
Sự thiếu nhất quán trong dự báo có thể là một vấn đề, bởi vì các người lập báo cáo tìm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Doanh số dự báo có thể là tổng doanh số dự báo riêng rẽ từ các giám đốc của nhiều đơn vị kinh doanh khác nhau. Bằng các công cụ riêng của họ, các giám đốc đưa ra các giả thiết khác nhau về lạm phát, tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, sự có sẵn của nguyên liệu…Đạt được sự nhất quán đặc biệt khó đối với doanh nghiệp, khi nguyên liệu của một đơn vị kinh doanh này là sản phẩm của một đơn vị kinh doanh khác. Các nhà hoạch định của công ty sẽ phải phát hiện điều không nhất quán này và sắp xếp lại kế hoạch của hai bộ phận này.
Các doanh nghiệp thường thích thực hiện việc lập kế hoạch riêng lẻ một mình và bỏ qua sự kiện là các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp cũng đang triển khai kế hoạch của họ. Trên thực tế, chúng ta có thể tổng quát hóa như sau: khi bạn nhận được một tập hợp các dự báo doanh nghiệp, đừng chấp nhận giá trị bề mặt của chúng. Hãy thăm dò phía sau những dự báo này và cố gắng nhận diện xem những dự báo này đã dựa trên mô hình kinh tế nào.
– Tìm kiếm kế hoạch tài chính tối ưu.
Cuối cùng, giám đốc tài chính sẽ phán đoán xem kế hoạch nào là tốt nhất. Tuy nhiên, không có mô hình hay thể thức nào hàm chứa hết tất cả những phức tạp và những điều vô hình gặp phải trong việc lập kế hoạch tài chính. Ở bất kỳ lĩnh vực nào, luôn có những vấn đề có thể đề cập đến được nhưng không có giải pháp chính thức.
Các nhà hoạch định tài chính thường gặp phải những vấn đề không thể giải quyết được và đối phó với vấn đề này một cách tốt nhất có thể được theo phán đoán của mình. Thí dụ không thể nói chắc chắn một chính sách lợi tức cổ phần rộng rãi là tốt hay xấu mặc dù có thể xác định một số vấn đề mà các giám đốc nên xem xét. Dù sao, các nhà hoạch định tài chính phải quyết định về chính sách cổ tức.
Đôi khi các Giám đốc tài chính diễn tả các mục tiêu của doanh nghiệp bằng các con số kế toán. Nhìn bề ngoài, những mục tiêu trên không có nghĩa. Tuy nhiên, một phần những mục tiêu như vậy có thể để họ cố gắng nhiều hơn.
– Kế hoạch tài chính phải linh hoạt.
Các kế hoạch dài hạn có một nhược điểm là thường trở nên lỗi thời hầu như ngay khi vừa lập ra. Dĩ nhiên, chúng ta có thể bắt đầu trở lại quy trình lập kế hoạch từ đầu, nhưng có thể có ích nếu như chúng ta tiên liệu được trước cách điều chỉnh các dự báo.
2.4.2 Phương pháp lập kế hoạch tài chính
Phương pháp lập chiến lược tài chính
Không có một chiến lược chung thích hợp cho các doanh nghiệp. Giám đốc tài chính phải biết xây dựng chiến lược tài chính thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mình.
Trong giai đoạn khởi sự, do rủi ro kinh doanh là rất cao, nguồn vốn thích hợp nhất trong giai đoạn này là vốn cổ phần, chính sách cổ tức thích hợp trong giai đoạn này là giữ lợi nhuận để tái đầu tư.
Trong giai đoạn tăng trưởng rủi ro kinh doanh vẫn còn cao, nguồn vốn thích hợp trong giai đoạn này vẫn là vốn cổ phần. Trong giai đoạn này doanh nghiệp đã tính đến chiến lược phát hành cổ phần ra công chúng bằng các phát hành đặc quyền. Chính sách cổ tức trong giai đoạn này vẫn là chi trả danh nghĩa cho triển vọng tăng trưởng tương lai cao và do đó kéo theo tỷ số giá thu nhập P/E cũng tăng lên. Giá cổ phần trong giai đoạn này tăng nhưng rất dễ biến động.
Trong giai đoạn sung mãn rủi ro kinh doanh đã giảm xuống ở mức trung bình. Điều này cho phép các giao dịch chấp nhận ở một mức độ nào đó rủi ro tài chính bằng nguồn tài trợ bao gồm lợi nhuận giữ lại cộng với nợ vay. Nghĩa là doanh nghiệp có sử dụng đòn bẩy tài chính. Chính sách cổ tức thích hợp nhất trong giai đoạn này để duy trì giá cổ phần là chia cổ tức cao do triển vọng tăng trưởng trong tương lai chỉ ở mức trung bình đến thấp. Thu nhập trên mỗi cổ phần trong giai đoạn này cao nhưng giá cổ phần lại ổn định với biến động thấp.
Trong giai đoạn suy thoái, thường các Giám đốc tài chính sẽ sử dụng chính sách chi trả cổ tức cao kết hợp với việc sử dụng tài trợ bằng nợ vay được đảm bảo bằng giá trị cuối cùng của tài sản. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể sử dụng các phát hành đặc quyền với chiết khấu cao nhằm thu hút vốn đầu tư. Nhưng thị trường cũng rất dễ nhận biết chiến lược này và điều này có thể làm cho giá cổ phần của doanh nghiệp suy thoái giảm xuống. Cuối cùng, doanh nghiệp cũng có thể làm tăng giá trị của doanh nghiệp suy thoái bằng cách giảm các tỷ lệ nợ.
Phương pháp lập kế hoạch tài chính ngắn hạn
Lập kế hoạch tài chính ngắn hạn liên quan với quản trị tài sản lưu động và nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Tài sản lưu động quan trọng nhất là tiền mặt, chứng khoán thị trường, hàng tồn kho và khoản phải thu. Nợ ngắn hạn quan trọng nhất là khoản vay ngân hàng và khoản phải trả. Sai biệt giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn được gọi là vốn luân chuyển (thuần).
Tài sản lưu động và nợ ngắn hạn quay vòng nhanh hơn các hạng mục khác trong bảng cân đối kế toán. Các quyết định đầu tư và tài trợ ngắn hạn được thay đổi nhanh và dễ hơn các quyết định dài hạn. Như vậy, Giám đốc tài chính không phải bận tâm xa hơn vào tương lai khi đưa ra các quyết định này.
Bản chất của vấn đề lập kế hoạch tài chính ngắn hạn được xác định bởi số tiền dài hạn huy động được. Một doanh nghiệp phát hành số tiền nợ dài hạn hay cổ phần thường hay giữ lại phần lớn thu nhập, có thể thấy rằng mình luôn có thặng dư tiền mặt thường xuyên. Trong trường hợp này, việc thanh toán hóa đơn không đặt thành vấn đề và việc lập kế hoạch tài chính ngắn hạn bao gồm quản trị danh mục các chứng khoán thị trường. Nếu doanh nghiệp có tiền mặt thặng dư tốt hơn nên hoàn trả lại tiền thừa cho cổ đông.
Các doanh nghiệp khác huy động tương đối ít vốn dài hạn và trở thành một con nợ ngắn hạn thường xuyên. Hầu hết doanh nghiệp cố gắng tìm một cấu trúc lý tưởng bằng cách tài trợ tất cả tài sản cố định và một phần tài sản lưu động bằng vốn cổ phần và nợ dài hạn. Các doanh nghiệp này có thể đầu tư tiền mặt thặng dư vào một phần thời gian trong năm và đi vay vào phần thời gian còn lại.
Điểm bắt đầu cho việc lập kế hoạch tài chính ngắn hạn là một sự hiểu biết các nguồn vốn và sử dụng tiền mặt. Các doanh nghiệp dự đoán nhu cầu tiền mặt thuần bằng cách dự đoán số thu nợ, cộng thêm các dòng tiền vào khác và trừ tất cả chi tiêu tiền mặt dự kiến.
Nếu số dư tiền mặt dự kiến không đủ để trang trải các chi phí hoạt động thường ngày và cung cấp một khoản dự phòng cho các chi tiêu bất ngờ, cần tìm thêm tài trợ. Có thể huy động tài trợ dài hạn nếu số thiếu hụt thường xuyên và khá lớn. Ngược lại, bạn có thể chọn một số nguồn tài trợ ngắn hạn. Ví dụ, có thể vay ngân hàng một hạn mức tín dụng không bảo đảm, vay bằng thế chấp các khoản phải thu hay hàng tồn kho, hoặc tài trợ thâm hụt bằng cách chậm thanh toán hóa đơn trong một thời gian. Ngoài chi phí thấy rõ là tiền lãi phải trả cho tài trợ ngắn hạn còn có thể có các chi phí ẩn khác. Ví dụ doanh nghiệp có thể bị yêu cầu duy trì một số dư bù trừ tại ngân hàng, hay có thể bị mất danh tiếng là một khách hàng thanh toán nhanh nếu chọn cách tài trợ là thanh toán chậm các hóa đơn. Giám đốc tài chính phải chọn cách tài trợ nào có tổng chi phí thấp nhất (cả chi phí thấy rõ và chi phí ẩn) nhưng vẫn để doanh nghiệp có đủ linh hoạt để trang trải các chi phí bất ngờ.
Việc tìm kiếm một kế hoạch tài trợ ngắn hạn chắc chắn sẽ được tiến hành bằng cách làm thử và sửa dần. Giám đốc tài chính phải thăm dò kết quả từ nhiều giả thiết khác nhau về nhu cầu tiền mặt, lãi suất, giới hạn tài trợ từ các nguồn riêng biệt…
The post Tổng quan về năng lực quản trị tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường appeared first on Luận văn 1080.
No comments:
Post a Comment