Tuesday, February 19, 2019

Cơ sở lý luận Giáo dục quyền con người, quyền công dân

Cơ sở lý luận Giáo dục quyền con người, quyền công dân http://bit.ly/2T1oOLr

Giáo dục quyền con người, quyền công dân là sự tác động của nhân tố chủ quan được định hướng trong toàn bộ hoạt động của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức đoàn thể quần chúng; các tổ chức của Liên Hợp Quốc, tổ chức chính phủ.

Cơ sơ lý luận Giáo dục quyền con người, quyền công dân

Cơ sơ lý luận Giáo dục quyền con người, quyền công dân

1.Khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân

1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân

Quyền con người – Nhân quyền, quyền công dân là một phạm trù lịch sử. Từ thời cổ đại những tư tưởng và yêu sách về các quyền, mà trước hết yêu sách về các quyền con người đã được phát sinh ở vùng Địa Trung Hải là nơi có nền văn minh, kinh tế phát triển rực rỡ nhất lúc bấy giờ. Sau khi các quyền con người được triển khai ở các quốc gia trong vùng và khu vực xung quanh rồi mới xâm nhập vào xã hội châu Âu cổ đại và châu Âu mới.

Năm 1776, hầu hết các nước thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với đế chế Anh. Trong một văn bản có tên là “Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”, đã khẳng định: “… tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng… tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [93, tr. 15].

Như vậy, trong lịch sử phát triển của quyền con người, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 có thể được coi là sự xác nhận chính thức, đầu tiên về mặt nhà nước về quyền con người. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã cho rằng: Nước Mỹ – đó là nơi “lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về một nước cộng hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã được công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với cuộc cách mạng châu Âu thế kỷ XVIII” [57, tr. 65]. Tuyên ngôn này là cơ sở để xây dựng nên bản Hiến pháp của Mỹ năm 1787.

Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, vấn đề nhân quyền càng trở nên bức xúc và trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở đó, ngày 24-10-1945 tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời và đã thông qua bản “Hiến chương Liên Hợp Quốc” với mục đích chính là vì vấn đề quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Tiếp đến, tháng 12-1948 Liên Hợp Quốc đã công bố bản “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền”. Trên cơ sở này, hàng loạt văn kiện quốc tế về nhân quyền được tuyên bố, ký kết và trở thành luật pháp quốc tế về quyền con người.

Ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì Việt Nam đã có một lịch sử truyền thống lâu đời, trải qua suốt quá trình dựng nước và giữ nước về sự hình thành và đảm bảo quyền con người. Tuy nhiên, phải đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mới thực sự mở ra một kỷ nguyên mới về quyền con người , thời kỳ mà quyền con người được đề cao, được chính thức ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật.

Mặc dù vấn đề quyền con người, quyền công dân đã được hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. ở Việt Nam cũng vậy, nhưng do nó được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau (triết học, chính trị học, kinh tế học, luật học…), xuất phát từ những mục đích, màu sắc tư tưởng, lãnh địa chính trị của các quốc gia khác nhau; nên mặc dầu đã có nhiều hội thảo quốc tế, nhiều công trình nghiên cứu, những khái niệm quyền con người, quyền công dân vẫn tồn tại một cách trừu tượng, chung chung và ngày càng trở nên mơ hồ, rắc rối hơn.

Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ về khái niệm quyền con người, quyền công dân và nội dung của nó chính là cơ sở, nền tảng để xây dựng phương hướng, nội dung, phương pháp, điều kiện cho việc thực hiện giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay.

1.1.1. Khái niệm quyền con người (Nhân quyền)

“Nhân quyền” là một từ Hán Việt, theo “Đại Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học thì “Nhân quyền” là “quyền con người” [104, tr. 1239]. Từ điển này mới chỉ giải trình đơn thuần nghĩa Hán – Việt của từ Nhân quyền, mà chưa đề cập đến khái niệm của vấn đề này theo nghĩa được khái quát hóa từ những đặc điểm, nội dung, tính chất đặc thù của nó.

Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, mỗi định nghĩa là một sự biểu hiện khác nhau về góc độ nhìn nhận về vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên, tổng hợp lại các quan niệm đó được phân chia thành ba quan niệm chủ yếu, khác nhau về quyền con người như sau :

 Quan niệm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, nên quyền con người phải là quyền “bẩm sinh”, là “đặc quyền”, nghĩa là quyền con người, quyền lợi của con người với tư cách là người, gắn liền với cá nhân con người, không thể tách rời.

Quan điểm này được các đại biểu tư tưởng của giai cấp tư sản ở thế kỷ XVII, XVIII như Crotius, Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra trong học thuyết về pháp luật tự nhiên. Trường phái này cho rằng, quyền tự nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước.

  Về quan niệm thứ hai: Trái với quan niệm thứ nhất, quan niệm này lại chỉ đặt con người và quyền con người trong mối quan hệ xã hội. Quan niệm này cho rằng, con người chỉ là một thực thể xã hội, nên quyền của nó chỉ được xác định trong mối tương quan với các thực thể xã hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó được chế độ nhà nước, pháp luật điều chỉnh bảo vệ.

Quan niệm này có tính tích cực khi coi quyền con người là một khái niệm có tính lịch sử, đặt con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì con người là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên quyền con người cũng luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội. Cơ sở của quyền con người ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định.

 Quan niệm thứ ba: Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề quyền con người. Quan niệm này đã khắc phục được tính phiến diện, phản khoa học về con người, quyền con người ở các quan niệm trên.

Xuất phát từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, con người mặc dù vẫn là một thực thể tự nhiên như các loài động vật khác, nhưng lại khác với loài động vật khác ở chỗ con người chỉ thực sự tồn tại với tư cách là một con người khi nó được tồn tại trong cộng đồng xã hội. Hai mặt này tồn tại biện chứng trong một con người. Trong cái tự nhiên của con người có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Mặt này trở thành tiền đề cho mặt kia trong mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Xuất phát từ quan niệm này về quyền con người nên chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng vấn đề quyền con người: “Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội” [65, tr. 12].

Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con người là “động vật xã hội” [63, tr. 855] có khả năng “tái sinh ra con người”, con người là động vật cao cấp nhất trong quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt này, cũng như quan niệm thứ nhất, quyền con người trước hết là một thuộc tính tự nhiên. Quyền con người không phải là một “tặng vật”, do giai cấp thống trị ban phát thông qua nhà nước mà quyền con người trong hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, được thể hiện ở quyền được sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng đáng với con người.

Xét về mặt thứ hai của quan niệm này, con người mặc dù là động vật cao cấp nhất của tự nhiên, nhưng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con người đã sống thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cương thứ VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho rằng: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [64, tr. 21]. Như vậy, con người mặc dù vẫn là thực thể tự nhiên sinh học, là bộ phận của tự nhiên, nhưng bên cạnh đó, để được gọi là người nó còn phải tồn tại trong cộng đồng xã hội, và biến đổi cùng với cộng đồng xã hội của mình. Bằng khả năng của mình, con người tác động vào tự nhiên, xã hội làm biến đổi tự nhiên và xã hội để phục vụ nhu cầu tự tồn tại, phát triển của mình. Ngược lại, những biến đổi của tự nhiên, của xã hội do con người tạo ra cũng tác động chi phối trở lại con người, làm biến đổi con người. Do đó xét về khía cạnh xã hội, thì “quyền con người, ngay từ khi có xã hội loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên còn in đậm bản tính xã hội” [65, tr. 13].

Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nước đã tạo ra những chuyển biến có tính “bước ngoặt” trong sự biến đổi mối quan hệ tương quan giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con người. Đi kèm xã hội có giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện xã hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả bản tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con người cũng tất yếu chịu sự chi phối của giai cấp thống trị xã hội.

Mặt khác, quyền con người, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá chinh phục tự nhiên của chính con người, nghĩa là phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con người, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ phát triển kinh tế – xã hội. Con người càng có khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu thì tự do, quyền con người ngày càng được mở rộng, ngày càng được đảm bảo bấy nhiêu.

Từ quan điểm trên cho thấy, về bản chất, quyền con người bao gồm cả quyền tự nhiên và quyền xã hội. Quyền tự nhiên phải được đặt trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội, chịu sự chi phối, ràng buộc của xã hội, gắn liền với quá trình chinh phục tự nhiên và xã hội. Quyền con người chỉ được đặt ra khi nó tồn tại trong cộng đồng người. Khái niệm quyền con người chỉ xuất hiện khi con người bị những thực thể người khác xâm hại đến lợi ích của mình. Hoặc ngược lại, nếu con người tồn tại độc lập, không có mối liên hệ cộng đồng, không bị các thực thể khác trong cộng đồng tác động xâm hại đến lợi ích của mình thì không thể làm xuất hiện khái niệm quyền con người.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người không phải chỉ là phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con người nêu trên, mà từ phân tích nêu trên cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của quyền con người có những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.

Nhận thức khái niệm quyền con người với đầy đủ bản chất, thuộc tính của nó cho thấy quyền con người là một phạm trù phức tạp. Vì vậy, cần thiết phải đưa ra định nghĩa về quyền con người. Tuy nhiên, nếu chỉ đưa ra định nghĩa quyền con người với tư cách là một phạm trù riêng biệt của chính trị học, kinh tế học, triết học, luật học sẽ là điều phiến diện, không đầy đủ, vì như thế nó mới chỉ thể hiện được quyền con người dưới góc độ khoa học, mà không thể hiện được bản chất cũng như tính đa diện của vấn đề này. Hay nói cách khác, nó mới chỉ thể hiện trạng thái tĩnh của quyền con người.

Jacques Mourgon (giáo sư đại học khoa học xã hội Toulouse) đưa ra định nghĩa: “Quyền con người là những đặc quyền được các quy tắc điều khiển mà con người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và với chính quyền” [68, tr. 12]. Định nghĩa này chủ yếu đề cập đến quyền con người ở khía cạnh tự nhiên của nó.

Một học giả Việt Nam cho rằng:

Quyền con người là các khả năng của con người được đảm bảo bằng pháp luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người khác trên cơ sở pháp luật [31, tr. 34].

Định nghĩa này cũng mới chỉ đề cập đến quyền con người với tư cách là phạm trù luật học. Chúng tôi nhận thức rằng, khái niệm quyền con người phải là một phạm trù tổng hợp, bao hàm cả bản chất và những thuộc tính đa diện – nhiều mặt của nó. Có một định nghĩa đang được sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền ở nước ta hiện nay: “Nhân quyền (hay quyền con người) là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [90, tr. 10].

Chúng tôi cho rằng, khái niệm này bắt nguồn từ khái niệm của Mác về quyền con người. Theo Mác: “Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người” [57, tr. 14]. Định nghĩa này cũng tương ứng với nội dung của khái niệm quyền con người do Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam phát biểu tại hội nghị quốc tế về nhân quyền ở Viên (áo) tháng 6 năm 1993: Quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là “chuẩn mực tuyệt đối” mang tính phổ biến, vừa là “sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triền”, quyền con người “không thể tách rời”, đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội… Quyền con người là một tổng thể những quyền gắn bó với nhau trong mối tương quan biện chứng. Đó là quyền cá nhân và quyền của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị – dân sự và kinh tế văn hóa xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội…

Trong thời đại ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển. Như vậy, định nghĩa trên về nhân quyền đã được khái quát hóa từ góc độ bản chất của vấn đề, được xem xét từ các đặc điểm của nó (so sánh giữa con người và động vật khác), và cũng được xem xét từ góc độ giới hạn, phạm vi của vấn đề. Định nghĩa này không chỉ khắc phục được tính phiến diện của các định nghĩa khác, mà nó còn xác định rõ ràng “ranh giới” của vấn đề, hạn chế của việc hiểu và vận dụng lệch lạc về quyền con người. Chúng tôi tán thành với khái niệm này.

1.1.2. Khái niệm quyền công dân

Quyền công dân, về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng với cách mạng tư sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tư sản đã biến con người (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong nhà nước quân chủ sang địa vị công dân trong nhà nước cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái niệm công dân là đề cập tới một bộ phận con người, theo quy định của pháp luật với tư cách là những thành viên bình đẳng trong Nhà nước, từ đó mà quyền con người được thừa nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhưng quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền con người, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và mối quan hệ đó được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch.

Hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền công dân:

 Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì quyền công dân là: “Quyền của người công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền về kinh tế – văn hóa xã hội” [104, tr. 1384]

 Theo tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc, “quyền công dân – đó là sự thể chế hóa về mặt nhà nước bằng pháp luật địa vị con người trong khuôn khổ nhà nước, là sự thừa nhận, trong chừng mực mà nhà nước chấp nhận, địa vị con người của cá nhân trong nhà nước [91, tr. 75].

Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng: “Quyền công dân là tập hợp những quyền tự nhiên được pháp luật của một nước quy định, mà tất cả những người có chung quốc tịch của nước đó được hưởng một cách bình đẳng” [36, tr. 21].

Theo chúng tôi, các khái niệm trên tuy có sự diễn đạt khác nhau, nhưng về bản chất, nội dung đều xuất phát từ khái niệm về quyền công dân của C. Mác. Về vấn đề này C. Mác cho rằng: “Quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên “xã hội công dân” [57, tr. 14]. Như vậy, khái niệm công dân, quyền công dân ra đời sau quyền con người, nó gắn liền và được sử dụng rộng rãi trong xã hội tư sản.

So với khái niệm quyền con người thì khái niệm quyền công dân mang tính xác định hơn. Vì thế, nội dung, số lượng, chất lượng quyền công dân của mỗi quốc gia là khác nhau, và tùy thuộc vào thể chế chính trị xã hội, vào giai cấp cầm quyền trong xã hội. Trước đây ở các nước xã hội chủ nghĩa vấn đề quyền con người ít được nói đến, nên mặc nhiên được hiểu rằng quyền con người và quyền công dân là đồng nhất. Trong các văn kiện pháp lý (Hiến pháp, luật) chỉ tồn tại thuật ngữ quyền công dân. Ngay ở Việt Nam cũng vậy, trong các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, 1980 đều chỉ đề cập đến quyền và nghĩa vụ của công dân mà không đề cập đến vấn đề quyền con người. Chỉ đến Hiến pháp năm 1992, vấn đề quyền con người mới chính thức được đề cập đến (Điều 50 Hiến pháp 1992).

1.1.3. Quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân

Khi nghiên cứu vấn đề “nhân quyền”, ta phải xem xét đầy đủ cả hai khái niệm quyền con người – quyền công dân. Đây là hai khái niệm cơ bản, có mối quan hệ biện chứng, mật thiết với nhau, nhưng cũng có sự độc lập nhất định với nhau và cần được phân biệt rõ khi tiếp cận vấn đề này.

Khái niệm quyền con người, là khái niệm rộng hơn so với khái niệm quyền công dân. Nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước mà còn thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân con người với cộng đồng xã hội. Do đó, trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, quyền con người bao gồm toàn bộ những quyền tự nhiên được xác định từ khi họ sinh ra và tồn tại trong suốt cuộc đời của họ. Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng, quyền con người đóng vai trò “là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con người, khả năng độc lập của con người trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân” [36, tr. 21].

Trong quan hệ với cộng đồng nhân loại, quyền con người bao gồm những nhu cầu, lợi ích của con người được ghi nhận và bảo vệ bằng cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Phạm vi tồn tại của nó không chỉ trong mối quan hệ với một nhóm, một dân tộc, một quốc gia mà còn tồn tại trong mối quan hệ với cả cộng đồng nhân loại. Nó thể hiện sự bình đẳng không chỉ những người có chung quốc tịch, mà còn biểu hiện sự bình đẳng của mọi người trong cả cộng đồng người. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nó ngày càng trở thành yếu tố quan trọng.

Từ phân tích trên cho thấy, khái niệm quyền con người, quyền công dân tuy có mối quan hệ gần gũi, mật thiết nhưng không đồng nhất cả về chủ thể lẫn nội dung. Tuy nhiên, hoàn toàn không có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân. Trong mối quan hệ giữa hai vấn đề này thì quyền con người là khái niệm rộng hơn bao hàm cả quyền công dân, còn quyền công dân là một thành tố, một bộ phận thiết yếu cơ bản của nó. Quyền con người không thể thay thế quyền công dân, đồng thời quyền công dân không thể chứa đựng hết dung lượng của quyền con người. Về chủ thể, chủ thể quyền con người cũng rộng hơn chủ thể quyền công dân vì ngoài những cá nhân là công dân, chủ thể quyền con người còn bao gồm cả những người không phải là công dân như đã người nước ngoài, người không quốc tịch.

Nhận xét về vấn đề này, C.Mác – Ph.Ăngghen cho rằng:

Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có nội dung và ý nghĩa khác nhau, nhưng không thể tách biệt đến mức đối lập, mà về thực chất chúng thống nhất với nhau. Quyền con người phải “thu hút” được quyền công dân vào nội dung của nó, vì chúng nằm trong một chỉnh thể thống nhất, phản ánh tổng thể nhu cầu của con người hiện thực trong điều kiện còn tồn tại Nhà nước [57, tr. 14].

Và “Vì vậy, Mác – Ăngghen đã sử dụng cả hai khái niệm Quyền con người và Quyền công dân” [57, tr. 14].

1.2. Khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân

1.2.1. Các quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con người, quyền công dân

Hiện đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con người, quyền công dân.

  Quan niệm của giai cấp tư sản: Các nước tư bản hiện đang rất quan tâm đến vấn đề giáo dục quyền con người. Vấn đề này được các nước phương Tây thực hiện thường xuyên, liên tục cho mọi đối tượng cả trong phạm vi quốc gia và cả trên phạm vi toàn cầu dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, nhằm đạt được những mục đích khác nhau. Xuất phát từ lợi ích chính trị của mình, họ chỉ tập trung vào việc giáo dục một số quan điểm về quyền con người dưới đây:

Ưu tiên giáo dục các quyền tự nhiên:

Quan niệm này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa quyền tự nhiên của con người, dẫn đến việc tuyệt đối hóa cá nhân trong quan hệ cộng đồng xã hội, coi quyền con người là bất khả xâm phạm, không phụ thuộc vào không gian, thời gian, quốc gia, dân tộc. Mục đích của việc giáo dục quan điểm này nhằm:

Thứ nhất, đối với dân chúng trong nước, quan điểm này tạo ra được một hình thức xã hội dân chủ. Mọi người đều có quyền như nhau trong việc thực hiện các mục tiêu, ý tưởng sống, được quyền tự do, quyền sở hữu, quyền được an toàn và chống áp bức…

Thứ hai, khi quyền, tự do cá nhân được đề cao tuyệt đối sẽ dẫn đến việc triệt tiêu quyền lợi của tập thể, nhóm, giới, xóa nhòa quyền giai cấp và sẽ dẫn đến hệ quả mà giai cấp tư sản – giai cấp đang thống trị xã hội mong muốn là ý thức đấu tranh giai cấp trong xã hội bị thủ tiêu, ý thức đấu tranh đòi quyền lợi của tập thể dân cư, sắc tộc, bộ phận xã hội bị xóa bỏ.

Để hiểu rõ quan điểm này của giai cấp tư sản, chúng tôi xin nêu một số dẫn chứng cụ thể sau:

+ Nhà hoạt động xã hội người Mỹ Barbara B.Bird đã viết:

… chúng tôi khai quốc bằng một cuộc cách mạng chống chủ nghĩa thực dân áp bức. Những sự kiện ấy kết hợp với chủ nghĩa cá nhân thô thiển. Sự thiếu chủ nghĩa cổ điển, sự tin tưởng vào những tự do mà Hiến chương về quyền lợi (Bill of Rights) đảm bảo đã dẫn đến sự chấp nhận bạo lực khi dân chúng tôi tìm cách chiếm đoạt đất hoang, thú vật và người da đỏ vốn là thổ dân ở đây trước. Điều này khiến cho người ta đặt ưu tiên vào cá nhân hơn là gia đình hoặc cộng đồng trong khi di chuyển để cắm những địa bàn di dân, nhiều khi ở những miền hẻo lánh, chúng tôi đã đưa điều ấy tới chỗ cực đoan.

Tôi lấy làm buồn vì sự tan vỡ của gia đình và cộng đồng Mỹ. Tôi kinh tởm bạo lực trong nền văn hóa của chúng tôi. ấy là tôi đặc biệt nghĩ đến một sự kiện lịch sử như sự phá hủy văn hóa và các dân tộc thổ dân Mỹ, sự bóc lột nô lệ da đen châu Phi trong khi xây dựng kinh tế quốc gia… [3, tr. 50].

+   Khi phân tích về quan hệ giai cấp ở Mỹ, trong tác phẩm “Lối sống Mỹ” (đã xuất bản ở 9 nước, bằng 7 ngôn ngữ khác nhau) A.R.Lanier đã viết:

… Hoa Kỳ thường tự hào là một xã hội không giai cấp. Khách lạ dễ thấy ở Mỹ lương cao và mức sinh hoạt cao, quần áo các kiểu may sẵn hàng loạt, ăn nói bỗ bã, hay sử dụng tên cúng cơm… Thực ra thì có giai cấp, bắt đầu ngay từ khu vực ở. Có điều là ranh giới giai cấp ấy rất dễ bị hủy bỏ, chỉ cần có nghị lực và thành công. Biết bao nhiêu người giàu sang xuất thân hàn vi. Người Mỹ lại thay đổi chổ ở luôn; trong 5 gia đình, có 1 cứ ba năm lại dọn nhà một lần. Với tâm lý tự lực, không có thành kiến giai cấp như ở nước khác.

Giai cấp gắn với gia đình. Từ thế chiến II, gia đình Mỹ càng lỏng lẻo; thành công cá nhân ít có ảnh hưởng đến gia đình, do đó, khái niệm giai cấp cũng có phần mờ nhạt hơn. Ngày nay, các khái niệm chủng tộc, gốc rễ dân tộc, địa phương… thường át khái niệm giai cấp. Vị trí xã hội không phải là một yếu tố ổn định, thừa hưởng của giai cấp như nhiều nơi khác” [78, tr. 152].

Pháp, quốc gia được coi là cái nôi của quyền tự do công dân khi từ năm 1789 đã công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng. Nội dung Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp gần đây nhất tiếp tục được thể hiện trong Hiến pháp của Cộng hòa Pháp năm 1958, đã toát lên tư tưởng chủ đạo của nó là:

Hoạt động tự do của con người là một quyền tự nhiên, vì vậy, không cần phải liệt kê lại những quyền gì là được phép: tất cả những gì luật pháp không nghiêm cấm đều được phép làm; ngược lại, cần phải xác định rõ những điều cần nghiêm cấm dĩ nhiên là có xét đến những quy định trong Hiến pháp [47, tr. 370].

Đặc trưng cơ bản cho các quyền tự do của con người được Hiến pháp của Pháp ghi nhận là quyền sở hữu. ở đây, quyền này được quan niệm như là quyền sở hữu, sử dụng hay phân chia từng phần tùy theo ý chí chủ nhân. Theo một số nhà nghiên cứu thì quyền này đã được phản ánh một cách nhất quán và chi tiết hóa qua các tiêu chuẩn của Bộ luật Dân luật của Napoleon năm 1804. Mà Bộ luật này theo nhận xét của Ăngghen chính là: “Là khung Bộ luật cơ bản mẫu mực của xã hội tư bản”. Với tinh thần coi tài sản sở hữu là nền tảng của tự do nêu trên, Điều 554 Bộ Dân luật Pháp quy định: “Sở hữu là quyền được sử dụng và phân chia tài sản hoàn toàn tuyệt đối miễn sao việc sử dụng và phân chia tài sản không phạm vào những gì sắc luật và quy chế không cấm”. Nhà làm luật không có quyền xâm phạm hoặc hạn chế quá mức việc chiếm giữ, sử dụng và phânchia tài sản, phải theo đúng nguyên tắc: “Cho phép làm tất cả những gì không gây phương hại đến những người khác, hay làm hại đến lợi ích xã hội” [47, tr. 372], hoặc theo ý kiến của  Giscard d’Estaing thì nhà làm luật:

Chỉ có được quyền can thiệp vào các quan hệ kinh tế tự do dựa trên cơ sở cạnh tranh và thị trường trong những trường hợp bất đắc dĩ hoặc trong những trường hợp phải kìm lại sự tiến triển buộc cá nhân phải mất qua nhiều công sức vất vả không đáng có, hoặc nhằm mục đích thay đổi quá trình chuyên môn hóa nền kinh tế đang khiến nó phụ thuộc quá vào người cấp vốn và thị trường quốc tế [47, tr 372].

Theo quy định của Hiến pháp Pháp, một cơ sở quan trọng để bảo đảm các quyền tự do là nguyên tắc tính phù hợp, dung hòa giữa các quyền tự do, tính chất cùng tồn tại trong quan hệ thống nhất giữa các quyền tự do công cộng, địa phương và cá nhân. Trong đó, các quyền tự do công cộng (mục 2 Điều 34 Hiến pháp Pháp), các quyền tự do của các tập thể địa phương và vùng lãnh thổ (mục 4 Điều 34, mục 2 Điều 72 Hiến pháp Pháp) đều được coi là “nền tảng để tôn cao quyền tự do của cá nhân, của công dân cũng như quyền chiếm giữ và phân chia tài sản riêng” [47, tr. 373]. Như vậy, nghĩa vụ của bộ máy nhà nước là phải đảm bảo thực hiện đúng pháp luật và trách nhiệm của mình để bảo đảm tôn trọng và thực hiện ở mức độ cao nhất các quyền, tự do của công dân.

 Đức, quyền công dân bắt đầu được ghi nhận trong Hiến pháp từ năm 1818 – 1819 (Hiến pháp Baria và Bađen năm 1818, Nurtemberg năm 1819), khi đó, nước Đức còn đang ở trong thời kỳ quân chủ lập hiến. Đây là thời kỳ chuyển giao giữa chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa nên thời kỳ này đã có một sự dung hòa, thích nghi giữa trật tự pháp luật quân chủ tuyệt đối với những đòi hỏi về kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản mà trong đó, cái ảnh hưởng to lớn là những tư tưởng của chủ nghĩa tự do kinh tế. Tư tưởng này đã trở thành căn cứ nền tảng cho việc hình thành nên những quyền và tự do công dân có tính kinh điển đang dần được xác nhận trong pháp luật thực định và tồn tại trong các Hiến pháp, văn bản pháp luật của nước Đức sau này. Điều 1 Luật cơ bản của Đức quy định: “Việc tôn trọng và bảo vệ các quyền của con người được tuyên bố là nguyên

tắc cơ bản của toàn bộ quyền lực nhà nước” [47, tr. 410]. Nguyên tắc quyền tự chủ của nhân dân và học thuyết quyền tự nhiên được tiếp tục thể hiện ở Điều 4 Luật cơ bản khi nội dung của điều luật này tuyên bố cấm vi phạm và xuyên tạc các quyền của con người.

Chỉ tập trung giáo dục các quyền dân sự và chính trị:

Quyền chính trị, dân sự vừa là mục đích, vừa là động lực của cách mạng tư sản. Vấn đề này tiếp tục được đề cao trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản vì những lý do chính trị của giai cấp tư sản. Hiện nay, một số nhà khoa học, nhà chính trị tư sản vẫn tiếp tục phủ nhận ý nghĩa của các quyền về kinh tế – xã hội đối với toàn bộ các quyền về chính trị, dân sự và các quyền, tự do khác của con người. Họ cho rằng các quyền dân sự, chính trị có tầm quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo thực hiện các quyền con người. Thậm chí, họ còn phủ nhận cả trách nhiệm pháp lý của các quốc gia trong việc bảo đảm thực hiện các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặc dù các quyền đó đã được ghi rõ trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các Công ước quốc tế khác về quyền con người. Một minh chứng rất điển hình cho luận điểm này của giai cấp tư sản là việc Liên Hợp Quốc cùng lúc thông qua hai “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị” và “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”. Giải thích về vấn đề này, La-lê-ri Sa-lit-de cho rằng:

Khi Liên Hợp Quốc quyết định thảo ra một hiệp ước về quyền con người, Liên Xô tham gia hoàn chỉnh hiệp ước này. Lập trường của Liên Xô về những quyền xã hội – kinh tế rất cứng rắn, khó mà các nước tư bản thỏa hiệp được với Liên Xô trên lĩnh vực này. Tuy thế, người ta vẫn tìm ra được cách nhân nhượng nhau, đáng lẽ thảo chỉ một hiệp ước về quyền con người, người ta đã thảo ra hai bản. Hiệp ước quốc tế về các quyền xã hội, kinh tế và văn hóa, chủ yếu phản ánh quan điểm của Liên Xô và hiệp ước quốc tế về các quyền công dân và quyền chính trị của con người phản ánh chủ yếu quan điểm phương Tây [107, tr. 3].

Ông cũng cho rằng, hiện có nhiều người nghi ngờ thuật ngữ “các quyền xã hội – kinh tế”, họ thậm chí còn không cả thừa nhận các quyền này như là một bộ phận trong toàn bộ các quyền cơ bản của con người và không chịu coi đó là những quyền phải được nhà nước bảo đảm. Cơ sở của quan điểm này là việc trong các xã hội kinh doanh tư nhân (chủ yếu là Tây Âu và Bắc Mỹ), con người phải tự lo liệu lấy cho mình và “trong những điều kiện ấy, nói đến bảo đảm những quyền xã hội – kinh tế sẽ là vô nghĩa và mâu thuẫn với mâu thuẫn xã hội. Trong lòng xã hội tự do kinh doanh, Nhà nước không sản xuất hàng hóa và dịch vụ, nó cũng không sở hữu nhà ở và bất động sản, do đó, nó không thể bảo đảm cho con người những của cải loại ấy” [107, tr. 5]. Khi Nhà nước cần đảm bảo mức sống cho một bộ phận nhân dân nghèo khổ nhất trong xã hội thì Nhà nước phải bắt những người có thu nhập cao phải tự hạn chế mình để nuôi sống bộ phận nghèo khổ trong xã hội. Điều này tuy đang được khuyến khích ở các nước tư bản nhưng nó lại được coi là hoạt động từ thiện chứ không phải là sự tôn trọng và bảo vệ các quyền xã hội và kinh tế của công dân. Hay nói rõ hơn, nó không phải là một quyền của công dân.

Về vấn đề này, chúng ta cũng có thể thấy được rất rõ trong hệ thống pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức. Hiến pháp năm 1848 của Đức lần đầu tiên ghi nhận một số quyền xã hội, phản ánh ảnh hưởng của tư tưởng xã hội – dân chủ, thể hiện sự quan tâm đến quyền lợi của giai cấp khác ngoài giai cấp tư sản, thể hiện quan niệm mới về quyền con người không chỉ là các quyền chính trị và dân sự. Tuy nhiên, trong thực tế, các quyền này được phân biệt rất rõ ràng:

Đồng thời với việc các quyền chính trị và tự do công dân được xem như là những quyền có tính chất truyền thống, tức là những bảo đảm chống lại sự tùy tiện của các cơ quan thừa hành và hành chính, người ta coi các quyền xã hội như là những giá trị có tính chất cương lĩnh nhất thời, chứ không hề có tính bắt buộc phải thực hiện” [55, tr. 403].

Trong Hiến pháp năm 1949 của Cộng hòa Liên bang Đức, trong khi các quyền và tự do cơ bản (quyền dân sự và chính trị “tự do” truyền thống) được ghi rõ thuộc loại đầu thì lại không có những quy phạm đảm bảo cho các quyền xã hội và những trường hợp làm hại quyền xã hội không thể là căn cứ để khiếu nại lên tòa án Hiến pháp.

Giáo dục quan điểm về quyền con người là tuyệt đối, vĩnh hằng, phổ biến:

Chủ nghĩa nhân bản trừu tượng của giai cấp tư sản cho rằng, nhân quyền là quyền lợi vốn có không thể tước đi được của con người với tư cách là con người. Mà quyền con người do “luật lệ của tự nhiên và của đấng tạo hóa đã cho họ được hưởng” [93, tr. 15] hoặc do “Quốc hội thừa nhận và tuyên bố, với sự chứng kiến và sự bảo hộ của đấng tối cao, các quyền sau đây của con người và của công dân” [94, tr. 21].

Vì thế, quyền con người trở nên tuyệt đối, vĩnh hằng và phổ biến. Thậm chí các nhà lý luận chính trị của giai cấp tư sản còn cho rằng quan niệm nhân quyền của họ như là giá trị phổ biến mà toàn thế giới phải tuân thủ.

Giáo dục quan niệm về nhân quyền cao hơn chủ quyền:

Cũng với căn cứ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa nhân bản trừu tượng, luận điểm của các nhà lý luận, chính trị tư sản cho rằng, con người là điểm xuất phát và cũng là điểm cuối cùng, là giá trị cao nhất trong mọi giá trị. Vì thế, vấn đề thứ nhất của mọi quan hệ quốc tế là con người, quyền con người. Nó còn cao hơn cả vấn đề chủ quyền quốc gia. Khi quyền con người ở một quốc gia nào đó bị xâm phạm thì các nước khác có nghĩa vụ phải can thiệp để bảo vệ quyền con người ở đó. Thí dụ: điển hình cho quan điểm này là sự can thiệp của Mỹ, Anh và các nước NATO vào Irắc và Nam Tư trong thời gian qua. Và gần đây nhất là việc Hạ nghị viện Mỹ thông qua “Đạo luật nhân quyền Việt Nam”, đã xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền của Việt Nam. Hàng năm Mỹ đều có báo cáo về việc bảo đảm nhân quyền của các nước trên thế giới theo tiêu chí nhân quyền của Mỹ; và coi đây là căn cứ để thực hiện chính sách can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.

 Quan điểm của Liên Hợp Quốc về giáo dục quyền con người: Ngay từ khi ra đời, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã lập tức có giá trị như một văn kiện vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Nó tạo ra sức mạnh về các khía cạnh pháp lý trong quan hệ quốc tế, quốc gia, chính trị, đạo đức và những giá trị đó ngày càng không ngừng được nâng cao với nền văn minh nhân loại. Kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan đã phát biểu:

Hôm nay, chúng ta ghi nhớ sự bắt đầu của năm thứ 50 sự ra đời của Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền. ở khắp mọi nơi trên thế giới, đàn ông, phụ nữ và trẻ em thuộc đủ các màu da và tín ngưỡng sẽ tụ họp để đón nhận những quyền con người chung của chúng ta… Nhân quyền là cơ sở của sự tồn tại và cùng tồn tại của con người. Quyền con người là phổ biến, không thể chia tách và phụ thuộc lẫn nhau. Nhân quyền là cái làm nên nhân loại chúng ta. Đó là những nguyên tắc mang tính cơ sở để chúng ta thiết lập cái ngôi nhà thiêng liêng cho phẩm giá loài người… Khi chúng ta nói về quyền sống, hoặc về quyền phát triển, hoặc về quyền được bất đồng quan điểm và có sự khác biệt, có nghĩa là chúng ta đang nói về khoan dung. Khoan dung nếu được tăng cường, bảo vệ và ghi nhận, sẽ bảo đảm cho tự do của tất cả chúng ta. Thiếu sự khoan dung chắc chắn chúng ta sẽ không làm được gì… tính phổ biến của nhân quyền sẽ cho nhân quyền sức mạnh. Nó là động lực để nhân quyền liên kết các biên giới quốc gia, vượt qua mọi trở ngại, thách thức và bạo lực… Cuộc đấu tranh cho các quyền con người trên toàn cầu luôn diễn ra ở khắp mọi nơi và đã là cuộc đấu tranh chống trả tất cả các hình thức chuyên chế tàn bạo và sự bất công, chống lại tình trạng nô lệ, chống lại chủ nghĩa thực dân, chống lại chủ nghĩa A-pac-thai. Ngày hôm nay, cuộc đấu tranh đó chưa hề giảm sức mạnh và chưa bị khác trước [50, tr. 1].

Nhân dịp này, Mary Robinson – Đại diện cho Cao ủy Liên Hợp Quốc cũng có một thông điệp:

Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền nguyện hỗ trợ tất cả những ai hành động theo tư tưởng của Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền với những dòng mở đầu như sau:

Thừa nhận phẩm giá vốn có cùng các quyền bình đẳng, bất di bất dịch của tất cả các thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới [66, tr. 3].

Như vậy, mục đích của vấn đề giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc chính là: “Xây dựng một nền văn hóa nhân quyền toàn cầu và cho phép mọi người được hưởng các quyền – giáo dục nhân quyền ở mọi cấp độ và cho tất cả mọi người – xây dựng mối quan hệ hợp tác trên toàn cầu vì nhân quyền – thúc đẩy sự khoan dung trong tư tưởng nhân quyền rộng khắp thế giới” [66, tr. 6].

Để thực hiện được những ý tưởng nhân văn đẹp đẽ trên – Liên Hợp Quốc đã ra tuyên bố hành động năm nhân quyền 1998 với các mục tiêu: Làm cho nhân quyền trở thành hiện thực trên toàn thế giới; ngăn chặn những vi phạm nhân quyền; xây dựng một mối quan hệ hợp tác toàn cầu vì nhân quyền; làm cho nhân quyền cùng với hòa bình, dân chủ và phát triển trở thành những nguyên tắc chỉ đạo của thế kỷ XXI. Tuyên bố đề ra 7 tư tưởng chỉ đạo: Thừa nhận phẩm giá của tất cả mọi người là mục tiêu tối cao; nhân quyền – ngôn ngữ chung của nhân loại; quyền phụ nữ – trách nhiệm của tất cả; nhân quyền dân chủ và phát triển – những tiêu chí dẫn tới tương lai; xã hội dân sự – động lực phát triển của nhân quyền; nhân quyền – những thành tựu và thách thức; Liên Hợp Quốc – hành động trong lĩnh vực nhân quyền. Trong các tư tưởng chỉ đạo này, quan điểm về giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc đã được thể hiện đầy đủ, rõ nét trong tư tưởng chỉ đạo về nhân quyền – ngôn ngữ chung của nhân loại.

Những nội dung trên thể hiện quan điểm giáo dục quyền con người của Liên Hợp Quốc, bao gồm những vấn đề sau:

  Mục đích của giáo dục nhân quyền nhằm: xây dựng một nền văn hóa nhân quyền toàn cầu và cho phép mọi người được hưởng các quyền.

  Nội dung của giáo dục nhân quyền: là toàn bộ các quyền con người được ghi nhận trong các Tuyên ngôn, các Công ước quốc tế về quyền con người.

  Đối tượng của giáo dục nhân quyền là toàn thể cộng đồng người, không phân biệt nam nữ, già trẻ, dân tộc, tôn giáo… mọi người đều được quyền được giáo dục như nhau về quyền con người.

1.2.2. Khái niệm giáo dục quyền con người – quyền công dân

Cho đến nay, những vấn đề về lý luận giáo dục quyền con người, quyền công dân   nước ta vẫn còn là một vấn đề mới mẻ, chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Để xác định được đúng bản chất, mục đích, nội dung, phương pháp đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền công dân, trước hết chúng ta cần phải xuất phát từ vấn đề cơ bản của giáo dục, đó là khái niệm giáo dục của khoa học sư phạm. Theo các nhà nghiên cứu khoa học, khi nghiên cứu về khoa học sư phạm, chúng ta cần phải nghiên cứu xem xét cả hai mặt của vấn đề này: nghĩa rộng và nghĩa hẹp của khoa học giáo dục.

+    Theo nghĩa rộng: có thể hiểu giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những điều kiện khách quan đã và đang tồn tại xung quanh đối tượng giáo dục như môi trường sống, chế độ xã hội, truyền thống văn hóa, xã hội, tập quán, phong tục, trình độ phát triển kinh tế, nền văn minh của nhân loại… và sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của bản thân con người đối với đối tượng giáo dục.

+    Hiểu theo nghĩa hẹp: giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch cụ thể của chủ thể giáo dục lên đối tượng giáo dục (khách thể của quan hệ giáo dục) nhằm đạt được những kết quả nhất định trong việc truyền bá những kinh nghiệm trong quá trình đấu tranh và sản xuất, truyền bá những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy mà thế hệ trước đã tích lũy được cho thế hệ sau.

Như vậy, cũng như các lĩnh vực giáo dục khác, giáo dục quyền con người, quyền công dân cũng được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, giáo dục quyền con người, quyền công dân là sự ảnh hưởng và tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên tri thức tình cảm và hành vi tôn trọng, đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân. Giáo dục quyền con người, quyền công dân mà luận văn nghiên cứu ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp và được xác định qua các yếu tố cụ thể sau:

+   Sự hình thành ý thức cá nhân của mỗi con người là kết quả tất yếu từ một quá tình tác động đan xen qua nhiều yếu tố ảnh hưởng. Trong các sự tác động này, nhân tố của các điều kiện khách quan chỉ đóng vai trò là những nhân tố ảnh hưởng mang tính thụ động, còn nhân tố chủ quan đóng vai trò là những nhân tố tích cực mang tính tác động chủ động, tự giác. Nhân tố ảnh hưởng mang tính thụ động có thể tự phát theo chiều hướng này hay chiều hướng khác, trong khi đó, nhân tố tác động bao giờ cũng phải là những hành động mang tính tự giác, có ý thức, có kế hoạch, có định hướng rõ ràng, cụ thể.

+  Khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân theo nghĩa hẹp còn có ý nghĩa trong việc phân biệt phạm trù giáo dục quyền con người, quyền công dân với ý thức quyền tự do của con người, của công dân. Hai phạm trù này không thể đồng nhất với nhau, nhưng chúng lại có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Hoạt động giáo dục là sự tác động của nhân tố chủ quan của nhiều chủ thể tạo thành hệ thống các hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định. Còn sự hình thành ý thức chính là sản phẩm, là kết quả của các ảnh hưởng của điều kiện khách quan và sự tác động mang tính định hướng chủ đích của nhân tố chủ quan. Hay nói khác đi, ý thức quyền con người, quyền công dân là kết quả mong muốn đạt được của chủ thể giáo dục thông qua hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân. Việc phân biệt này rất quan trọng, nó giúp ta xác định rõ nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục quyền con người, quyền công dân. Chỉ khi xác định được đúng đắn những vấn đề này và có cách thức vận dụng đúng đắn trong từng thời kỳ, từng giai đoạn, từng khu vực, từng đối tượng giáo dục cụ thể thì kết quả giáo dục mới đạt hiệu quả cao. Nếu xem nhẹ, buông lỏng vấn đề này, sẽ dẫn đến việc các ảnh hưởng tiêu cực, các yếu tố khách quan sẽ có điều kiện phát sinh, phát triển.

+  Xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục, theo giáo dục học, để xây dựng khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân, cho phép chúng ta chỉ ra mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái riêng” giữa giáo dục quyền con người, quyền công dân và giáo dục nói chung. Trong mối quan hệ này, giáo dục quyền con người, quyền công dân là “cái riêng” mang tính đặc thù, còn giáo dục là “cái chung” mang tính phổ biến. Dưới góc độ tiếp cận của triết học Mác – Lênin thì cái “riêng” vừa phải mang những đặc điểm

chung lại vừa phải mang tính thể hiện những nét đặc thù, nghĩa là giáo dục quyền con người, quyền công dân vừa phải chứa đựng trong nó những đặc điểm chung nhất của quá trình giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo dục nói chung, lại vừa phải chứa đựng những cái riêng làm nên tính đặc thù của mình. Nét đặc thù của giáo dục quyền con người, quyền công dân khác với các dạng giáo dục khác ở những điểm sau:

 Trước hết, nó phải nhằm mục đích giáo dục riêng. Đây là hoạt động mang tính hướng đích, nhằm hình thành tri thức tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với mong muốn, với yêu cầu, quy định của dân tộc, của nhân loại, của thế giới về quyền con người, quyền công dân.

 Nó phải chứa đựng nội dung giáo dục riêng. Đây là sự tác động có định hướng với nội dung cơ bản là sự truyền bá tri thức của nhân loại, của dân tộc, những quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền con người, quyền công dân, trong đó, các công ước quốc tế về quyền con người, những quy định của Hiến pháp, pháp luật quốc gia về quyền công dân là cực kỳ quan trọng, mang tính cơ bản, nền tảng.

 Xét trên các yếu tố chủ thể, đối tượng, hình thức, phương pháp giáo dục quyền con người, quyền công dân cũng chứa đựng những nét đặc thù riêng biệt. Nó là cả quá trình tác động thường xuyên, liên tục, trên nhiều cấp độ, đối với từng đối tượng, là quá trình lâu dài, chứ không phải chỉ là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục là đã hoàn tất việc giáo dục. Vì vậy mà nó trở thành quá trình xuyên suốt, kết nối, tác động hỗ trợ qua lại giữa gia đình, nhà trường, xã hội, bạn bè, các tổ chức tập thể lao động, tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể xã hội, nhóm xã hội, tổ chức tôn giáo, các sắc tộc, các dân tộc, các quốc gia và tổ chức Liên Hợp Quốc. Nhân tố con người, bằng hành động của mình đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa một bên là người giáo dục (chủ thể của quan hệ giáo dục) và một bên là người chịu sự tác động có tổ chức, có định hướng các thông tin về quyền con người, quyền công dân (đối tượng của quan hệ giáo dục). Do đó, người giáo dục cần thiết phải có hiểu biết nhất định về người được giáo dục như: độ tuổi, giới, tôn giáo, sắc tộc, trình độ kiến thức, nhân thân, truyền thống văn hóa, đạo đức, phong tục tập quán, ý thức chính trị, môi trường mà đối tượng đang sống, sự tham gia vào các công ước quốc tế, các quy định của Hiến pháp và pháp luật của quốc gia mà đối tượng là công dân, điều kiện kinh tế, xã hội nơi đối tượng đang sinh sống… và người giáo dục còn phải có phương pháp truyền tải thích hợp, là tấm gương, hình mẫu trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân.

Từ những phân tích trên có thể nêu khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân như sau: Giáo dục quyền con người, quyền công dân là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức về quyền con người, quyền công dân; biết tự mình bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của các chuẩn mực pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và tương lai tiến bộ của nhân loại về quyền con người, quyền công dân.

Với khái niệm trên, trong điều kiện ở nước ta hiện nay, việc trang bị đầy đủ, đúng đắn những tri thức về quyền con người, quyền công dân, tạo ra tình cảm, thói quen ứng xử theo quy định về quyền con người, quyền công dân cho mọi công dân trong xã hội là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các cơ quan chức năng, của các tổ chức đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế, trong đó, trách nhiệm này trước hết và trực tiếp là thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục, đào tạo con người. Con người không có tổ chức định hướng giáo dục về quyền con người, quyền công dân trong hoạt động của mình là trái với bản chất của giáo dục của xã hội dân chủ, của nhà nước pháp quyền, và vì thế, không thể có được ý thức quyền con người, quyền công dân ở cá nhân con người.

Mục đích của giáo dục quyền con người, quyền công dân:

Nếu như mục đích chung của giáo dục trong khoa học sư phạm, theo nghĩa hẹp nhằm đạt được ba mục đích đó là: mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc, mục đích hành

vi  và thói quen xử sự, thì theo chúng tôi, giáo dục quyền con người, quyền công dân cũng có những mục đích tương tự cơ bản sau:

  Cung cấp đầy đủ, đúng đắn những tri thức về vấn đề quyền con người, quyền công dân trên bình diện quốc gia, quốc tế; trong mối quan hệ giữa dân tộc và nhân loại, và những xu hướng phát triển của tri thức nhân loại về vấn đề này trong tương lai trên cơ

sở đòi hỏi của các đối tượng giáo dục khác nhau, phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.

 Hình thành tình cảm, lòng tin vào các quy định của pháp luật quốc tế, quốc gia về quyền con người, quyền công dân.

  Xây dựng sự vững chắc của các thói quen, ứng xử theo yêu cầu, nội dung đòi hỏi của quyền con người, quyền công dân.

Sự phân chia này của chúng tôi chỉ mang tính tương đối, nhằm cho phép xác định, tính toán chính xác hơn những đặc thù của giáo dục quyền con người, quyền công dân trong tổng thể hệ thống các dạng giáo dục thống nhất, cho phép tính toán áp dụng hợp lý các hình thức, phương tiện, cách thức giáo dục khác nhau để đạt được hiệu quả cuối cùng cao nhất của yêu cầu giáo dục quyền con người, quyền công dân

2. Chủ thể, khách thể, hình thức, nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người, quyền công dân

2.1. Khách thể và đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân

2.1.1. Khách thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân

Hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về khách thể. Tùy theo tính chất, phương pháp, đối tượng nghiên cứu khác nhau mà các ngành khoa học khác nhau có những quan niệm về các loại khách thể và đối tượng nghiên cứu của mình. Cụ thể:

– Theo khoa học pháp luật:

Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất, chính trị và tinh thần mà các công dân, tổ chức mong muốn đạt được nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật và thực hiện quyền chủ thể, nghĩa vụ pháp lý. Khách thể là đối tượng chịu sự tác động, chi phối của hoạt động trong quan hệ đối lập với đối tượng gây ra hành động gọi là chủ thể [32, tr. 344].

  Theo một số nhà nghiên cứu giáo dục pháp luật Việt Nam thì khách thể của giáo dục pháp luật là ý thức pháp luật và những thói quen, nếp sống, hành vi ứng xử của công dân, của các nhóm cộng đồng và toàn xã hội, thể hiện trình độ nhất định của nền văn hóa pháp lý. Còn đối tượng giáo dục pháp luật là những cá nhân công dân, hay những nhóm cộng đồng xã hội cụ thể, tiếp nhận tác động của các loại hoạt động giáo dục pháp luật mà ý thức và hành vi của họ là khách thể của giáo dục pháp luật. Nghĩa là khách thể và đối tượng của giáo dục pháp luật là hai phạm trù mang ý nghĩa khác nhau.

 Một số nhà nghiên cứu giáo dục pháp luật khác lại đồng nhất khách thể với đối tượng giáo dục pháp luật dựa trên khái niệm về khách thể của Đại Từ điển Tiếng Việt, [105, tr. 478] và theo quan niệm đồng nhất giáo dục của khoa học sư phạm. Những người này cho rằng: “Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật ở đây không phải chỉ là những cá nhân, những nhóm người chung chung mà còn bao hàm cả những yếu tố bên trong của họ như nhận thức tình cảm, cảm xúc, hành vi, hành động cụ thể của họ phù hợp với pháp luật” [43, tr. 16].

Theo chúng tôi, giáo dục quyền con người, quyền công dân cũng là một dạng của quan hệ giáo dục, là một dạng của quan hệ xã hội nên nó cũng chứa đựng những yếu tố chung nhất về khái niệm khách thể như những quan hệ xã hội khác, dạng giáo dục khác. Vì thế, chúng tôi coi khách thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân chính là những nhận thức, tình cảm, hành vi hành động của những cá nhân, những tập thể được hình thành qua hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân. Hay nói cách khác, nó chính là mục đích, kết quả mà chủ thể giáo dục quyền con người, quyền công dân mong muốn đạt được khi tác động lên đối tượng giáo dục.

Chúng tôi cho rằng, khách thể và đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền công dân là hai phạm trù khác nhau, không đồng nhất như quan niệm của một số nhà nghiên cứu về giáo dục pháp luật nêu trên. Vì nếu đồng nhất hai phạm trù này, trước hết thể hiện sự xem nhẹ kết quả mong muốn đạt được của hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân. Không thấy hết sự khác biệt về tính chất, vai trò, quan hệ tác động qua lại giữa khách thể và đối tượng của dạng giáo dục này. Trong quan hệ giữa đối tượng và khách thể thì đối tượng giáo dục có vai trò tiếp nhận sự tác động của hoạt động giáo dục và là cơ sở của sự tồn tại của khách thể khi kết thúc hoạt động giáo dục, và là phương tiện để khách thể thông qua đó mà biểu đạt ra ngoài. Hơn nữa, nếu đồng nhất khách thể với đối tượng giáo dục sẽ không cho phép chúng ta xây dựng nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp vì mỗi đối tượng giáo dục khác nhau luôn chứa đựng những yếu tố đặc thù đòi hỏi phải có nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp với yếu tố đặc thù đó. Hoặc không thấy hết được vai trò tác động trở lại của khách thể đối với đối tượng giáo dục khi nó đã hình thành và phát huy hiệu quả.

Sự tác động của hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân là sự tác động có ý thức, có định hướng, có kế hoạch lên đối tượng của giáo dục là những cá nhân, tập thể cụ thể, chứ không thể là sự tác động lên khách thể là cái được hình thành từ hoạt động tác động đó.

2.1.2. Đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền công dân

Đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền công dân là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận giáo dục. Cũng như các dạng giáo dục khác, việc xác định nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục thích hợp nhằm thu được hiệu quả giáo dục cao phụ thuộc rất nhiều vào việc nghiên cứu, đánh giá đúng đắn, toàn diện về đối tượng giáo dục nói chung và giáo dục quyền con người, quyền công dân.

  Đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền công dân trước hết bao gồm toàn bộ cá nhân đang tồn tại trong cộng đồng nhân loại; bao gồm tất cả các dân tộc trong mối quan hệ quốc tế. Trong mỗi dân tộc cụ thể, đối tượng của giáo dục quyền con người, quyền công dân là những cá nhân công dân, những nhóm, cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận những tác động của các hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân vừa mang tính quốc tế, vừa mang tính quốc gia mà ý thức và hành vi của họ là khách thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân. Đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam vừa mang những đặc điểm chung của cộng đồng nhân loại, vừa có những đặc điểm riêng biệt. Đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt

Nam rất phong phú, đa dạng và có thể phân loại thành các nhóm dựa trên các cơ sở, yếu tố, phản ánh trạng thái, địa vị pháp lý, điều kiện kinh tế, môi trường sống, việc làm, truyền thống văn hóa, đạo đức, tôn giáo của từng đối tượng giáo dục này. Các chủ thể giáo dục sẽ lựa chọn các nội dung, hình thức, giáo dục phù hợp nhằm làm cho từng đối tượng giáo dục tiếp thu được những tri thức cần thiết về quyền con người, quyền công dân để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, thích ứng với vai trò, địa vị của họ trong quan hệ với cộng đồng, với công dân khác.

Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cần phân loại các nhóm đối tượng để phục vụ cho hoạt động giáo dục quyền con người , quyền công dân. Có thể tập trung vào các nhóm đối tượng sau đây:

+  Nhóm đối tượng thứ nhất, là đội ngũ cán bộ công chức, viên chức trong các cơ quan, tổ chức của Đảng, trong các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và tư pháp.

+   Nhóm đối tượng thứ hai, là các thành viên của các tổ chức đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp.

+  Nhóm đối tượng thứ ba, là đội ngũ học sinh, sinh viên đang học trong các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.

+   Nhóm đối tượng thứ tư, là những người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân.

+  Nhóm đối tượng thứ năm, là người lao động ở khu vực nông thôn.

+  Nhóm đối tượng thứ sáu, là những người đã quá tuổi lao động, những người đãmvề hưu.

+  Nhóm đối tượng thứ bảy, là những người có những đặc điểm tự nhiên cần được nhà nước đặc biệt quan tâm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ để bảo đảm cho sự phát triển tự nhiên của họ như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em lang thang, phạm nhân.

+  Nhóm đối tượng thứ tám, là những người công tác trong lĩnh vực giáo dục mà đặc biệt là những người trực tiếp làm công tác giáo dục quyền con người, quyền công dân.

Việc phân loại đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân nêu trên được căn cứ theo sự tương đồng về chuyên môn, nhiệm vụ, nghề nghiệp, vị thế xã hội, giới, hoàn cảnh điều kiện sống…Đối với từng nhóm đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân nêu trên, cần có sự nghiên cứu đầy đủ những đặc điểm của họ về tâm lý, tuổi tác, trình độ văn hóa, tôn giáo, giới tính, điều kiện sống để xác định nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp.

2.2. Chủ thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân

Theo từ điển tiếng vịêt, có thể hiểu chủ thể “là đối tượng gây ra hành động mang tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng chi phối của hoạt động tác động, gọi là khách thể” [105, tr. 130].

Lý luận giáo dục học cho rằng, chủ thể giáo dục là những thầy, cô giáo và tất cả những người làm công tác giáo dục khác.

Vận dụng quan niệm trên vào giáo dục quyền con người, quyền công dân có thể thấy rằng, tuy đây là một dạng của giáo dục, nhưng nó có những đối tượng, phương pháp, hình thức giáo dục khác với giáo dục trong các nhà trường. Người thực hiện hành động giáo dục (tác động lên đối tượng giáo dục) quyền con người, quyền công dân không phải chỉ có những thầy, cô giáo, những cá nhân làm công tác giáo dục, mà còn cả các tổ chức, cơ quan được giao nhiệm vụ hoặc tự nhận nhiệm vụ giáo dục quyền con người, quyền công dân trước cộng đồng, xã hội; hoặc các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ tham gia thực hiện dạng giáo dục này ở Việt Nam. Hình thức giáo dục cũng vậy, không chỉ là những buổi học ở trên lớp, ở những hội thảo, mà việc giáo dục quyền con người, quyền công dân còn được thực hiện qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua sách báo và ở mọi nơi, mọi lúc, vì thế nếu coi chủ thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân chỉ là cá nhân những người làm công tác giáo dục thì sẽ không đầy đủ. Theo chúng tôi, chủ thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân là những cá nhân, những cơ quan, tổ chức làm công tác giáo dục quyền con người, quyền công dân trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao hoặc mang tính tự nguyện, mang tính trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu giáo dục quyền con người, quyền công dân. Có những chủ thể đồng thời là đối tượng của dạng giáo dục này.

Việc xác định chủ thể của giáo dục quyền con người, quyền công dân có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận và thực tiễn hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân. Trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể, đối tượng giáo dục trong hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân – chủ yếu là các hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của người giáo dục lên đối tượng giáo dục – cho phép xác định đúng mức những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác động lên hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân của đối tượng giáo dục này; cũng như cho phép xác định chính xác yêu cầu khách quan của chủ thể giáo dục quyền con người, quyền công dân trong việc xác định nội dung, hình thức, phương tiện, biện pháp thích hợp để tiếp cận với đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân một cách có hiệu quả nhất.

2.3. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục quyền con người, quyền công dân

2.3.1. Nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân

Việc xác định nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân là yếu tố quan trọng hàng đầu của quá trình giáo dục quyền con người, quyền công dân. Nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân dựa trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm của từng đối tượng cụ thể, và xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ, mục đích của dạng giáo dục này. Phạm vi của dạng giáo dục này là rất rộng, có những đặc điểm đặc thù riêng không đồng nhất, không lẫn với các nội dung giáo dục khác, nhưng nó có thể lồng ghép, đan xen với nội dung giáo dục khác như giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật (phần liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công dân).

Theo chúng tôi, nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân bao gồm những vấn đề sau:

  Các thông tin về quyền con người, quyền công dân, bao gồm cả những tuyên ngôn, công ước quốc tế về quyền con người và ghi nhận đảm bảo của Hiến pháp, pháp luật quốc gia về quyền và nghĩa vụ của công dân.

 Các quan điểm hiện nay trên thế giới, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề quyền con người, quyền công dân.

 Lịch sử hình thành và phát triển quyền con người, quyền công dân (cả trên thế giới và Việt Nam).

  Các thông tin về việc thực hiện quyền con người, quyền công dân ở các nước trên thế giới và Việt Nam.

  Các thông tin về kết quả nghiên cứu, hình thức, phương pháp, nội dung, kinh nghiệm tổ chức thực hiện việc giáo dục quyền con người, quyền công dân của các nước trên thế giới và thực tiễn giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.

 Các thông tin về giáo dục quyền con người của Liên Hợp Quốc, của các tổ chức phi chính phủ; quan hệ của Việt Nam với các tổ chức này trong việc thực hiện giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.

  Các thông tin về sự tác động, ảnh hưởng về việc giáo dục quyền con người, quyền công dân của các tổ chức quốc tế, của Liên Hợp Quốc và của các nước khác tới công dân Việt Nam.

 Các thông tin về đánh giá của Liên Hợp Quốc, của các quốc gia các về vấn đề thực hiện quyền con người, quyền công dân và hoạt động giáo dục về vấn đề này ở Việt Nam.

 Các thông tin về hệ thống, tổ chức thực hiện giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam, của Liên Hợp Quốc và các nước khác trên thế giới…

Tuy nhiên, không phải bất kỳ đối tượng giáo dục nào cũng đòi hỏi được sự cung cấp đầy đủ tất cả các thông tin về quyền con người, quyền công dân nêu trên. Và cũng không thể thực hiện giáo dục một cách máy móc, thuần túy chỉ là cung cấp thông tin, mà cần phải lưu ý tới một thực tiễn, sự tồn tại mâu thuẫn của các thông tin, sự phủ định lẫn nhau của các thông tin và những đặc điểm đặc thù của nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân để có nhận thức đầy đủ, khách quan, chính xác của chủ thể và đối tượng giáo dục. Cần phải có sự phân tích, đánh giá một cách khoa học, khách quan về các thông tin để tạo ra nhận thức một cách đúng đắn về vấn đề quyền con người, quyền công dân, tránh tình trạng áp đặt chủ quan, định kiến duy ý chí, dẫn đến sự nhận thức sai lệch hoặc không đạt hiệu quả cao của giáo dục quyền con người, quyền công dân. Vì thế, khi thực hiện giáo dục quyền con người, quyền công dân, cần phải xác định mục đích giáo dục cần đạt được ở từng đối tượng giáo dục, trên cơ sở đó xác định mức độ, từng cấp giáo dục khác nhau cho từng đối tượng cụ thể. Theo chúng tôi, trên cơ sở mục tiêu, đặc điểm của đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân, chúng ta có thể phân định nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân thành ba cấp độ khác nhau sau:

  Yêu cầu tối thiểu về nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân cho mọi công dân. Cấp độ này bao gồm những nội dung tối thiểu nhất, phổ thông nhất về quyền con người, quyền công dân, phù hợp với đối tượng là quảng đại quần chúng nhân dân, nhằm giúp họ hình thành những tri thức tối thiểu, hình thành tình cảm, thói quen đơn giản trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân.

  Yêu cầu riêng về giáo dục quyền con người, quyền công dân theo nhu cầu về ngành, nghề, địa vị xã hội, giới, nhóm xã hội. Nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân ở cấp độ này thường có tính tổng hợp, hệ thống, nền tảng, bao gồm: hệ thống các khái niệm, phạm trù cơ bản của quyền con người, quyền công dân; những tri thức về quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong pháp luật quốc gia, quốc tế, những tri thức cơ bản về xây dựng và đảm bảo quyền con người, quyền công dân; việc xử lý vi phạm quyền con người, quyền công dân…

 Yêu cầu giáo dục có tính chuyên ngành về quyền con người, quyền công dân. Đây là cấp độ cao nhất của giáo dục quyền con người, quyền công dân, bao gồm những tri thức mang tính chuyên sâu về quyền con người, quyền công dân, những vấn đề mang tính chất kỹ năng, kỹ xảo, thao tác nghề nghiệp về quyền con người, quyền công dân… Nội dung giáo dục  cấp độ này chủ yếu dành cho các đối tượng trở thành chuyên gia nghiên cứu, giảng dạy, các chuyên gia hoạt động trong các tổ chức quốc gia, quốc tế về quyền con người, quyền công dân.

Từ việc xác định phạm vi và mức độ yêu cầu về nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân nêu trên cho thấy, trong thực tiễn, khó có một hình thức hay một chủ thể giáo dục quyền con người, quyền công dân riêng biệt nào có đủ khả năng đáp ứng được việc truyền tải toàn bộ các yêu cầu phạm vi nội dung để đạt tới mục tiêu giáo dục quyền con người, quyền công dân đặt ra cho từng loại đối tượng. Vì thế, cần thiết phải tìm kiếm phối hợp với các chương trình, mục tiêu giáo dục quyền con người, quyền công dân của các chủ thể khác nhau để bổ sung, hỗ trợ những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của từng hình thức, phương tiện giáo dục.

2.3.2. Hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân

Mục đích, nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân không thể tự thân trở thành nhận thức, tình cảm của đối tượng giáo dục mà phải thông qua các hình thức giáo dục cụ thể. Việc xác định hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân vì thế đóng một vai trò không nhỏ đến kết quả của hoạt động giáo dục này. Hình thức giáo dục theo giáo dục học được hiểu là cách thức tổ chức hoạt động phối hợp giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh nội dung giáo dục và đạt mục đích giáo dục. Theo chúng tôi, ở khía cạnh này, giáo dục quyền con người, quyền công dân cũng giống như các dạng giáo dục khác, do đó, cũng giống như khái niệm về hình thức giáo dục của giáo dục học nêu trên. Hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân là các dạng hoạt động cụ thể, có tổ chức, phối hợp giữa các chủ thể giáo dục quyền con người, quyền công dân và đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân để thể hiện nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân và đạt mục đích giáo dục quyền con người, quyền công dân.

Từ khái niệm trên cho thấy, có thể có nhiều hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân khác nhau được thực hiện trong thực tiễn. Tuy nhiên, căn cứ vào mục tiêu, nội dung, chủ thể, đối tượng giáo dục quyền con người, quyền công dân, có thể chia hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân thành hai loại sau:

  Các hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân mang tính phổ biến, truyền thống như phổ biến, nói chuyện về quyền con người, quyền công dân tại các Hội nghị, cuộc họp, hội thảo, câu lạc bộ về quyền con người, quyền công dân; các lớp giảng chuyên đề cho các đối tượng chuyên biệt, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến qua sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở các cụm dân cư, làng xã, buôn làng, qua đoàn thể quần chúng; các nơi thờ tự, sinh hoạt tôn giáo, tuyên truyền phổ biến giáo dục qua các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, sáng tác văn học nghệ thuật về đề tài quyền con người, quyền công dân, thông tin cổ động, dạy và học về quyền con người, quyền công dân.

  Các hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân đặc thù. Đây là các hoạt động định hướng giáo dục quyền con người, quyền công dân thông qua các hoạt động hoạch định đường lối, chính sách, hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan nhà nước (như Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Công an).

2.3.3. Phương pháp giáo dục quyền con người, quyền công dân

Theo các nhà nghiên cứu, thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Me Todos”, có nghĩa là con đường, cách thức tự vận động bên trong nội dung, nó gắn với hoạt động của con người, giúp con người hoàn thành được những nhiệm vụ phù hợp với mục tiêu đã đề ra [88, tr. 40].

Phương pháp bao giờ cũng xuất phát từ một mục đích nhất định, nội dung giáo dục nhất định. Mục đích, nội dung giáo dục quyền con người, quyền công dân quy định phương pháp, nhưng bản thân phương pháp có tác dụng trở lại mục đích, nội dung, làm cho nội dung ngày càng hoàn thiện, làm cho mục đích đạt được ngày càng cao.Phương pháp giáo dục quyền con người, quyền công dân có mối quan hệ qua lại rất mật thiết với các nhân tố khác của quá trình giáo dục mà trước hết là hình thức giáo dục. Phương pháp giáo dục và hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân, theo chúng tôi là hai khái niệm độc lập, không đồng nhất, nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi hình thức giáo dục nhất định luôn luôn gắn với những phương pháp giáo dục nhất định, đặc thù của hình thức đó. Ngược lại, phương pháp giáo dục tác động trở lại làm cho hình thức giáo dục phát triển ngày càng hướng đích, ngày càng hoàn thiện hơn. Vì thế, khi lựa chọn, sử dụng các hình thức giáo dục quyền con người, quyền công dân, nhất thiết chúng ta còn phải lựa chọn, áp dụng những phương pháp cụ thể, thích hợp với từng chủ thể và đối tượng cụ thể dựa trên tính chất đặc thù của chủ thể và đối tượng đó. Đồng thời, chúng ta cũng phải thường xuyên học hỏi, áp dụng những phương pháp giáo dục mới, đạt hiệu quả cao hơn mà khoa học giáo dục chuyên ngành trên thế giới đã tìm ra và áp dụng.

3 Vai trò của giáo dục quyền con người, quyền công dân

Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được Đại hội lần thứ VIII của Đảng đề ra và tiếp tục được khẳng định ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Đây là yêu cầu tất yếu, khách quan nhằm duy trì bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh để nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành của Nhà nước; giữ vững và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong tình hình hiện nay. Có nhiều quan điểm về Nhà nước pháp quyền nhưng đều đề cập một số đặc trưng cơ bản. Chúng tôi tán thành quan điểm về Nhà nước pháp quyền do một học giả Việt Nam đưa ra dưới đây :

Nhà nước pháp quyền là một Nhà nước mà ở đó, quyền và nghĩa vụ của tất cả và của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Nhà nước pháp quyền được định nghĩa là một chế độ mà ở đó, Nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật, việc thực hiện pháp luật được bảo đảm bằng một hệ thống tòa án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất là con người. Nhà nước phải tuân thủ pháp luật và đảm bảo cho công dân có đủ khả năng và điều kiện chống lại sự tùy tiện của Nhà nước, phải có một cơ chế chặt chẽ để kiểm tra tính hợp pháp và hợp hiến của pháp luật và các hành vi của bộ máy chính quyền Nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải tạo ra cho công dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp giữ vị trí tối cao trong hệ thống pháp luật. Hiến pháp xây dựng trên cơ sở bảo đảm tự do và quyền của công dân [76, tr. 39-40].

Từ quan điểm này, chúng ta thấy rằng Nhà nước pháp quyền có mối liên hệ với những vấn đề quan trọng sau:

  Phải tạo ra cho được ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước.

 Xác định đúng đắn trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân.

 Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân.

 Xây dựng tổ chức, bộ máy nhà nước chặt chẽ, có tính ổn định cao.

 Tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước.

Trong các vấn đề trên, vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân được coi là yêu cầu trọng tâm của nội dung về Nhà nước pháp quyền. Điều đó có nghĩa là quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền đặt ra yêu cầu cấp bách phải tăng cường công tác giáo dục quyền con người, quyền công dân.

Chúng tôi cũng tán thành với quan điểm trên. Và từ đây cho thấy, các nội dung này có liên quan trực tiếp tới việc thực hiện giáo dục quyền con người, quyền công dân. Cùng với giáo dục pháp luật và các dạng giáo dục khác, giáo dục quyền con người, quyền công dân trực tiếp góp phần tạo ra các nội dung, giá trị của Nhà nước pháp quyền, đảm bảo cho Nhà nước pháp quyền Việt Nam hình thành trong thực tiễn. Thực hiện tốt giáo dục quyền con người, quyền công dân còn giúp cho quá trình này được rút ngắn và đi đúng hướng, tránh được những lệch lạc, phiến diện trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

  Giáo dục quyền con người, quyền công dân nhằm nâng cao tri thức quyền con người, quyền công dân cho các thành viên xã hội.

  Giáo dục quyền con người, quyền công dân góp phần xây dựng thái độ tôn trọng giá trị cao quý của quyền con người, quyền công dân trong các thành viên của xã hội, nhất là đối với cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước.

 Giáo dục quyền con người, quyền công dân góp phần xây dựng ý thức tự vệ, tự đấu tranh bảo vệ quyền con người, quyền công dân của mỗi thành viên xã hội, cũng như đấu tranh bảo vệ quyền con người, quyền công dân của người khác khi những quyền đó bị xâm hại.

4. Danh mục tài liệu tham khảo

 

  1.  Nguyễn Trọng An (2001), Báo cáo tham luận của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam tại hội thảo “Thành tựu về quyền con người của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”.
  2.  Nguyễn Thị Bình (2000), “Chúng ta luôn phấn đấu vì quyền con người”, Thông tin quyền con người, (1).
  3.  Barbara B.Bird (1995), “Nhiều điều tôi không thích ở nước tôi dường như là những cái thái quá của chính những điều tôi ưa chuộng”, trong sách Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
  4.  Báo cáo tháng 2 năm 2001 của Trung tâm nghiên cứu quyền con người về thành tích về công tác giáo dục, tuyên truyền và phổ biến luật năm 2000.
  5.  Báo cáo năm 2001 của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam – UNICEF về kết quả hoạt động dự án trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt năm 2000 và1996 – 2000.
  6. Bộ báo cáo đánh giá các dự án – Tập số 5 năm 1998 của Radda Barhen Việt Nam về đánh giá dự án Diễn đàn trẻ em của Tạp chí “Thiếu niên tiền phong” năm 1996 – 1997.
  7. Báo cáo tháng 9/1997 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về hoạt động giáo dục quyền trẻ em năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
  8. Báo cáo ngày 26/8/1997 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về tổng kết các hoạt động về tuần lễ quyền trẻ em (15 – 22/7/1997) và các hoạt động tiếp theo.
  9.  Báo cáo ngày 24/8/1998 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về tổng kết về hoạt động giáo dục quyền trẻ em năm 1998.
  10. Báo cáo số 947/GDĐT ngày 28/8/1999 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về tổng kết dự án “tháng giáo dục quyền trẻ em” năm 1999.
  11. Báo cáo nhanh của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về hoạt động dự án “Tháng giáo dục quyền trẻ em” bổ sung năm 1999.
  12. Báo cáo ngày 12/10/2000 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về tổng kết hoạt động dự án “Tháng giáo dục quyền trẻ em” dành cho trẻ em theo học các lớp linh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh năm học 1999 – 2000,
  13. Báo cáo ngày 23/3/2001 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về tổng kết hoạt động dự án “Giáo dục quyền trẻ em trong trường tiểu học” tại thành phố Hồ Chí Minh năm học 2000 -2001.
  14. Báo cáo số 141/TH ngày 7/1/1998 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổng kết “tuần lễ giáo dục quyền và bổn phận trẻ em” (từ ngày 8 đến 13/9/1997).
  15. Báo cáo ngày 15/12/1999 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tóm tắt kết quả hoạt động về “Giáo dục quyền và bổn phận trẻ em” 1999.
  16. Báo cáo số 11797/TH ngày 15/12/1999 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kết quả hoạt động giao lưu về “quyền và bổn phận trẻ em” – 1999 của 7 tỉnh, thành phố.
  17. Báo cáo số 425/TH ngày 18/1/1999 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kết quả hoạt động của “Tháng giáo dục quyền và bổn phận trẻ em”.
  18. Báo cáo tháng 12/1998 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổng kết “Tháng giáo dục quyền và bổn phận trẻ em năm học 1998 – 1999.
  19. Báo cáo tháng 5/2000 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổng kết “Tháng giáo dục quyền và bổn phận trẻ em” năm học 1999 – 2000.
  20. Báo cáo quốc gia lần thứ 2 của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Về tình hình thực hiện công ước Liên Hợp Quốc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
  21.  Báo cáo quốc gia lần thứ 3 và 4 của CHXHCN Việt Nam (2000), Về tình hình thực hiện công ước Liên Hợp Quốc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Hà Nội.
  22.  Báo cáo tháng 9/1992 của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam về hai năm thực hiện công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, 1992.
  23.  Bộ báo cáo đánh giá các dự án số 7 năm 1998 của Radda Barnen Việt Nam về đánh giá chương trình phát thanh về quyền trẻ em do Đài tiếng nói Việt Nam thực hiện (1996 – 1998).
  24. Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
  25. Chỉ tiêu trẻ em Việt Nam năm 1998, (1999), Trung tâm Thông tin tư liệu, UBBV và CSTE Việt Nam, Hà Nội.
  26. Chỉ tiêu trẻ em Việt Nam năm 1999, (2000), Trung tâm Thông tin tư liệu – UBBV và CSTE Việt Nam, Hà Nội.
  27. Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, (2/2001), UBBV và CSTE Việt Nam, Hà Nội.
  28. Children Rights training package, (1999), UNICEF, Hà Nội.
  29.  Các văn kiện quốc tế và quốc gia về quyền con người (1995), Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  30. Dự thảo chương trình hành động quốc gia về trẻ em năm 1991 – 2000, UBBV và CSTE Việt Nam.
  31. Nguyễn Bá Diến (1993), Về quyền con người – trong tập chuyên khảo “quyền con người, quyền công dân”, Tập 1, Trung tâm nghiên cứu quyền con người – Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 30 – 56.
  32. Trần Ngọc Đường (1999), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập 1, 2, 3, Nxb CTQG, Hà Nội.
  33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.
  34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCHTW khóa VIII, Nxb CTQG.
  35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội.
  36. Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, Luận án thạc sĩ Luật học.
  37.  Giáo án cho các bài giảng về công tác với trẻ em làm trái pháp luật, (1999), UBBV và CSTE Việt Nam Radda Barnen, Hà Nội.
  38.  Hoàng Văn Hảo – Chu HồngThanh (10/1995), Các điều kiện bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong công cuộc đổi mới đất nước, đề tài KX 07-16, Hà Nội.
  39. Hoàng Văn Hảo, (19980 Chính sách cơ bản của Đảng – Nhà nước Việt Nam về quyền con người, quyền công dân.trong tập bài giảng lý luận về quyền con người, TTNCQCN,HVCTQGHCM,Hà nội.
  40. Hoàng Văn Hảo – Chu Hồng Thanh (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị, Nxb CTQG, Hà Nội.
  41. HoàngVăn Hảo – Chu Hồng Thanh (1996), Một số vấn đề về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Nxb Lao động, Hà Nội.
  42. Đỗ Ngọc Hà (1996), Gia đình và khả năng tái hòa nhập của trẻ em lang thang kiếm sống, Viện NCTN (YRI), Radda Barnen, Hà Nội.
  43. Đặng Ngọc Hoàng (2000), Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
  44. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992, (1995), Nxb CTQG, Hà Nội.
  45. Hoạt động của Radda Barnen vì trẻ em làm trái pháp luật, chưa thành niên phạm pháp, Radda Barnen, Hà Nội, 1999.
  46. Hợp tác Việt Nam – UNICEF về truyền thông, tuyên truyền quyền trẻ em, Báo Nhân dân số 16885, ngày 9/10/2001.
  47. Phạm Khiêm ích -Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới hiện đại, đề tài KX 07-16, Viện TTKHXH, TTNCQCN, Hà Nội.
  48. Kỷ yếu Hội nghị tổng kết kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam 1997 – 2000 (2000), Xây dựng chiến lược 10 năm và KHHĐ 5 năm – ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Hà Nội.
  49. Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000, UBQH vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
  50. Kofi Annan (4/1999), Thông điệp của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhân ngày nhân quyền, trong quyền trẻ em tạo lập một nền văn hóa nhân quyền, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 1.
  51. Hồ Chí Minh (1970), “Di chúc”, Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  52. Hồ Chí Minh (1970), “Nói chuyện với các cháu thiếu nhi Việt Nam đêm trung thu thứ nhất nước Việt Nam DCCH”, Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  53. “Hồ Chí Minh (1970) nói chuyện tại buổi lễ khai mạc trường Đại học nhân dân Việt Nam”, Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  54. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  55. HOFMANNR (1995), Bảo vệ quyền con người và Hiến pháp CHLB Đức trong quyền con người trong thế giới hiện đại đề tài KX 07 – 16, Viện TTKHXH – TTNCQCN, Hà Nội.
  56. Đỗ Mười (1992), Sửa đổi Hiến pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  57. C.Mác – Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, Nxb CTQG, Hà Nội.
  58. C.Mác – Ph.Ăngghen (1976), “Chỉ thị về một số vấn đề gửi BCH Trung ương lâm thời”, trong sách C.Mác – Ph.Ăngghen – Lênin – Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  59. C.Mác – Ph.Ăngghen (1976), “Phê phán cương lĩnh Gota”, Trong sách C.Mác – Ph.Ăngghen – Lênin – Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  60. C.Mác – Ph.Ăngghen (1976), “Điếu văn trước mộ Mác”, Trong sách C.Mác – Ph.Ăngghen – Lênin -Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  61. C.Mác – Ph.Ăngghen (1976), “Chống Đuy-rinh”, trong sách C.Mác – Ph.Ăngghen – Lênin – Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  62. C.Mác – Ph.Ăngghen (1976), “Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư bản và của Nhà nước”, Trong sách C.Mác – Ph.Ăngghen – Lênin – Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  63. C.Mác – Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  64. C.Mác – Ph.Ăngghen (1986), Toàn tập, tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  65.  Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
  66.  Mary Robinsơn, Thông điệp các đại diện cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền nhân ngày nhân quyền 1997, trong quyền trẻ em tạo lập một nền văn hóa nhân quyền, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, tr. 3.
  67.  Dương Thị Thanh Mai (1996), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
  68.  Jacques Mourgon (1995), Quyền con người, Nxb Đại học Pháp, Hà Nội.
  69.  Lênin (1976), “Bàn về sự lẫn lộn chính trị”, Trong sách C.Mác – Ph.Ăngghen – Lênin – Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  70.  Lênin (1976), “Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên”, Trong sách C.Mác – Ph.Ăngghen – Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  71.  Lênin (1976), “Diễn văn tại Hội nghị các ban giáo dục chính trị toàn Nga” Trong sách C.Mác – Ph.Ăngghen – Lênin – Xtalin, Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  72.  Lênin V.I. (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
  73.  Lê Hữu Nghĩa, Bảo vệ chế độ ta, Thông Nam, Viện NCKHGD 3/11/2000. và  phát   triển quyền   con người bản   chất của tin   quyền  và bổn   phận của  trẻ em ở Việt – UBBV và CSTE Việt Nam, Radd Barnen từ 9/10 –
  74. Lượng giá chương trình thử nghiệm về giáo dục quyền và bổn phận của trẻ em ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu khoa học giáo dục, UBBV&CSTE, Radda Barnen từ 9/10 – 3/11/2000.
  75. Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
  76. Nguyễn Hữu Lệ (1995), Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền, Luận án chuẩn hóa trình độ thạc sĩ, Hà Nội.
  77. Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, (1998), Nxb CTQG, Hà Nội.
  78. A.R.Lanier (1995), “Hành vi Mỹ”, Trong sách Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr. 152.
  79. Lê Khả Phiêu (2000), “Bảo vệ và phát triển quyền con người lý tưởng phấn đấu của người cộng sản”, Thông tin quyền con người, (1). Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
  80. Phân tích đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, (2/2000), Bộ Lao động – Thương binh và xã hội – UNICEF, Nxb Lao động.
  81. Quyền trẻ em, (6/2000), Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  82. Quyền con người và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, (1991), Học viện Nguyễn ái Quốc.
  83. Quyền con người, (1995), Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Hà Nội.
  84. Fean -Facques – Roussrau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
  85.  Nalin Swaris (2000), Đạo luật nhân quyền và sự tái sinh xã hội, Nxb Asian.
  86. Chu Hồng Thanh (1997), Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người, Nxb CTQG, Hà Nội.
  87. Trần Thị Thanh Thanh (2001), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em đến năm 2010 – UBBV và CSTE Việt Nam, Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước, Hà Nội.
  88. Đinh Xuân Thảo (1996), Giáo dục pháp luật trong các Trường Đại học và Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
  89. Tổng luận đề tài Khoa học cấp bộ (1997), Các cơ sở pháp lý của quyền con người, TTKHXH và NVQG, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
  90. Tài liệu tham khảo nội bộ (1998), Tập bài giảng lý luận về quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  91. Tài liệu phục vụ tọa đàm (2000), Một số bài viết về quyền con người của các tác giả Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  92. Tập chuyên khảo (1990), CNXH và quyền con người, Đề tài khoa học “Nhân quyền”, Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội.
  93. “Tuyên ngôn độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776” (2000), Văn kiện quốc tế về quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  94. “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1789” (2000), Văn kiện quốc tế về quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  95. Tài liệu huấn luyện công ước về quyền trẻ em, (1999), Nxb CTQG, Hà Nội.
  96. Tham luận hội thảo (2000), Hiến pháp, pháp luật và quyền con người, Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  97. Tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, (8/1998), UBBV và CSTE Việt Nam, Nha Trang.
  98. Trẻ em lang thang, (1997), Nxb CTQG, Hà Nội.
  99. Trẻ em “Trong bóng tối”, (1999), Nxb CTQG, Hà Nội.
  100. Tạp chí phụ nữ và tiến bộ, số 1 (22)/2000.
  101. Tập tham luận Hội thảo (2000), Quyền, lợi ích của phụ nữ, trẻ em trong quan hệ hôn nhân, gia đình, TTNCQCN/Học viện CTQG Hồ Chí Minh, UNICEF, Hà Nội.
  102. Tuyên bố viên và chương trình hành động (1998), Trong các Văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  103. Đinh Ngọc Vượng (1992), Thuyết tam quyền phân lập và bộ máy Nhà nước tư sản hiện đại, Viện TTKHXH, Hà Nội.
  104. Đại từ điển tiếng Việt (1999), Viện ngôn ngữ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
  105. Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
  106. Văn kiện quốc tế về quyền con người, (2000), TTNCQCN VTTKH Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  107. Va-lê-ri – Sa-lit-de (1990), Sự ưu tiên của những quyền xã hội kinh tế quan điểm của phương Đông và phương Tây trong tập chuyên khảo CNXH và quyền con người, Đề tài Khoa học “Nhân quyền”, Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh

  1.  United Nation (1994), Human Rights question and answers New York and Geneva.
  2. Human Rights Education in Asian schools (2001), Asia – Pacific Information center – March.
  3. Citizenship education and human rights education (2000), Key concepts and debates 1 – The British council .
  4. Citizenship education and human rights education (2001), Developments and resources in the UK2 – The British council .
  5. Citizenship education and human rights education (2000), An International overview3. The British council .
  6. Office of the United Nation High commissioner for human rights – United nations Decade for human Rights Education 1995 – 2004. General Assembly – United nations Decade for human rights Education 1995 – 2004 – Note by the secretary – General – General 7 September 2000.

The post Cơ sở lý luận Giáo dục quyền con người, quyền công dân appeared first on Luận văn 1080.

No comments:

Post a Comment