Monday, February 18, 2019

Cơ sở lý luận điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của bộ luật

Chế định về quyền thừa kế là một chế định lớn trong Bộ luật dân sự. Chế định này nhằm để điều chỉnh những nguyên tắc chung về quyền thừa kế, về hình thức thừa kế theo di chúc và theo pháp luật, về thời hiệu khởi kiện

1. Khái quát chung về di chúc

1.1. Vài nét về thừa kế và quyền thừa kế

Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ thừa kế đã tồn tại như một yếu tố khách quan. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Thừa kế và để lại thừa kế mặc dù chưa được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, nhưng nó vẫn tồn tại một cách khách quan trong xã hội. ở thời kỳ này, quan hệ thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.

Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khi có tư hữu, nhà nước ra đời, quyền thừa kế được pháp luật quy định, bảo vệ. Mỗi nhà nước khác nhau có hệ thống những quy phạm pháp luật về thừa kế khác nhau. Pháp luật thừa kế thể hiện rõ bản chất giai cấp. Quyền thừa kế với tư cách là một chế định pháp luật, luôn gắn liền với một nhà nước nhất định.

Trong chế độ phong kiến và tư bản, giai cấp bóc lột chiếm hữu hầu hết tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Các quy định của pháp luật thừa kế phong kiến và tư bản đảm bảo sự chuyển dịch tài sản từ người bóc lột này sang người bóc lột khác. Qua việc chuyển dịch tài sản bằng hình thức thừa kế, giai cấp tư sản, giai cấp phong kiến duy trì sự thống trị cả về chính trị và kinh tế. Bằng công cụ pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng, giai cấp bóc lột duy trì sự thống trị xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác qua việc nắm giữ các tư liệu sản xuất, để từ đó nắm giữ thành quả lao động của xã hội. Có thể nhận thấy rằng, bản thân thừa kế không tạo ra quyền thống trị cho giai cấp bóc lột mà nó chỉ duy trì quyền lực đó mà thôi.

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân lao động. Vì vậy, pháp luật thừa kế trước hết đảm bảo cho công dân yên tâm lao động, sản xuất, hưởng thành quả lao động của mình và có quyền để lại thành quả lao động đó cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật khi người đó chết. Pháp luật về thừa kế trong chế độ xã hội chủ nghĩa đã động viên, khuyến khích được nhân dân trong việc tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.

1.2. Di chúc và đặc điểm của di chúc

1.2.1. Di chúc

Theo quy định tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 và Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di chúc chính là phương tiện để phản ánh ý chí của người có tài sản trong việc định đoạt tài sản của họ cho người khác hưởng sau khi người lập di chúc chết. Một người có thể có nhiều bản di chúc định đoạt một loại tài sản và những di chúc này đều thể hiện ý chí tự nguyện của họ, phù hợp với những quy định của pháp luật nhưng không phải tất cả các di chúc trên đều phát sinh hiệu lực mà di chúc có hiệu lực pháp luật là di chúc thể hiện ý chí sau cùng của người lập di chúc.

Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định. Theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 649 Bộ luật dân sự năm 2005), di chúc được thể hiện dưới hai hình thức: Di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Pháp luật chỉ cho phép người lập di chúc miệng trong những trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 654 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2005). Về chữ viết trong di chúc cũng được pháp luật quy định: Đối với người dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.

Với những quy định trên, pháp luật dân sự nước ta đã có những quy định cụ thể về di chúc. Cùng chung sống trên đất nước ta gồm có nhiều dân tộc, nên pháp luật dân sự cũng đã tính đến yếu tố lịch sử, nhận thức… tạo điều kiện cho mọi cá nhân thực hiện quyền lập di chúc, nếu cá nhân đó có năng lực lập di chúc theo luật định. Đối với di chúc bằng văn bản, pháp luật quy định có 4 loại di chúc bằng văn bản: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực. Quyền của người lập di chúc được pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự năm 1995, bao gồm những quyền sau:

 Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;

 Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;

 Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;

 Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;

 Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Trong thực tế thì không phải bất cứ người lập di chúc nào cũng thực hiện đúng các quyền được ghi nhận trên, hoặc là sử dụng một phần, hoặc lại sử dụng quá cả phần quyền được pháp luật quy định. Về thực hiện quyền phân định di sản thì người lập di chúc cũng có sự phân định di sản khác nhau: Có di chúc chỉ phân định một phần di sản cho người thừa kế, còn một phần di sản di chúc không nhắc đến. Trên thực tế cũng có những di chúc định đoạt cả phần tài sản của người khác (thường là định đoạt toàn bộ tài sản chung vợ chồng). Trong trường hợp này, di chúc chỉ có hiệu lực một phần tương ứng với di sản của người lập di chúc.

Theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp thì di chúc có nhiều điểm tương tự như pháp luật dân sự nước ta, được thể hiện:

Điều 895 quy định: “Di chúc là một chứng thư theo đó người để lại di chúc định đoạt sau khi chết, một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình, người đó có thể hủy bỏ di chúc” [5].

Điều 967 quy định: “Mọi người đều có thể định đoạt bằng di chúc để lập thừa kế hoặc để di tặng hoặc được gọi bằng bất cứ tên nào khác để thể hiện ý chí của mình” [5].

Điều 969 quy định: “Di chúc có thể viết tay, lập công chứng thư hoặc di chúc bí mật” [5]. Còn Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định di chúc tuy có những đặc trưng riêng, nhưng về cơ bản các quy định cũng tương tự như Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp. Pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp và pháp luật dân sự Nhật Bản còn có quy định hình thức của di chúc bí mật. Bản chất của di chúc bí mật tương tự như di chúc được lập tại công chứng nhà nước ở nước ta, nhưng có thủ tục chặt chẽ hơn (chúng tôi xin phân tích kỹ hơn ở phần hình thức của di chúc).

1.2.2. Đặc điểm của di chúc

Di chúc có những đặc điểm riêng biệt so với các giao dịch dân sự khác ở những điểm sau:

Trước hết, di chúc chính là sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc. ý chí đơn phương này được thể hiện qua việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc không phải bàn bạc với bất kỳ ai trong việc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (trường hợp lập di chúc chung vợ chồng thực chất thì vẫn là phần tài sản của ai thì người đó có quyền định đoạt). Người lập di chúc không có nghĩa vụ phải trao đổi với những người thừa kế về nội dung di chúc. Người lập di chúc phải tự nguyện, không bị đe dọa, cưỡng ép trong việc lập di chúc. Di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc, không bị sự chi phối nào của người khác. Bằng việc lập di chúc, người để lại di sản đã xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế theo di chúc.

ý  chí đơn phương của người lập di chúc còn được thể hiện việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho ai bao nhiêu phần trăm số tài sản thuộc quyền sở hữu của mình mà không phụ thuộc vào việc người được hưởng thừa kế theo di chúc có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích với người lập di chúc. Người lập di chúc có thể cho người này nhiều, người kia ít, hoặc không cho người nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Như vậy, nếu như trong tất cả các loại hợp đồng dân sự đều phải thể hiện ý chí của các bên tham gia hợp đồng và các bên đều phải tự nguyện thỏa thuận, bàn bạc, trao đổi…, thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của bên lập di chúc. Hợp đồng dân sự chỉ phát sinh hiệu lực khi các bên tham gia hợp đồng thống nhất được những điều khoản ghi nhận trong hợp đồng và cùng nhau ký kết hợp đồng, còn trong di chúc thì không có sự thống nhất giữa người lập di chúc và người được thừa kế theo di chúc. Thực tế đã có nhiều trường hợp người được hưởng thừa kế theo di chúc không thể biết mình có quyền được hưởng di sản theo di chúc vì di chúc chưa được công bố và được cất giữ bí mật. Đối với những di chúc do vợ chồng lập chung, trong đó mặc dù thể hiện ý chí chung của hai người, nhưng thực chất vẫn thể hiện ý chí đơn phương của từng người trong việc định đoạt tài sản chung (ý chí đơn phương của chồng và vợ trùng nhau trong việc định đoạt tài sản chung vợ chồng). Mặt khác, di chúc chung của vợ chồng vẫn chỉ thể hiện ý chí của một bên – bên chuyển giao tài sản.

Ý chí đơn phương này là đặc điểm khác biệt của di chúc với các loại giao dịch dân sự khác. Đây không phải chỉ riêng di chúc theo pháp luật dân sự Việt Nam mà pháp luật dân sự của hầu hết các nước thì vấn đề này cũng được quy định rõ như: Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp, Đức…

Đặc điểm thứ hai: Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di chúc nhằm chuyển dịch tài sản cho người khác, sau khi người lập di chúc chết. Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của các chủ thể nhằm chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác thì di chúc lại nhằm chuyển dịch tài sản của người đã chết sang cho người còn sống. Người thừa kế theo di chúc phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế.

Thực tế cho thấy không phải bất cứ ai trước khi chết cũng lập di chúc, mà có người trước khi chết họ chỉ để lại những lời dặn dò, ví dụ: Dặn dò các con phải thương yêu nhau, phải cố gắng học tập, tránh xa các thói hư, tật xấu…

Với khái niệm về di chúc tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005) thì di chúc phải thể hiện việc chuyển dịch tài sản của người lập di chúc cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Vì vậy, nếu như một tài liệu nào đó của người chết để lại mà không hàm chứa nội dung chuyển tài sản cho người khác, thì không thể được coi là di chúc. Pháp luật cho phép công dân có quyền định đoạt tài sản, trong đó có

 

việc để lại di sản thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật cũng chỉ công nhận khi di chúc của công dân đó thỏa mãn những điều kiện nhất định. Trong thực tiễn đã có không ít những di chúc không tuân theo những quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, dẫn tới di chúc không được công nhận hoặc chỉ được công nhận một phần.

Đặc điểm thứ ba: Di chúc là một loại giao dịch dân sự đặc biệt, chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết.

Khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định: “Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế” [6], [7].

Về thời điểm mở thừa kế, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định của pháp luật.

Đây là một đặc điểm thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa di chúc với các loại giao dịch dân sự khác, ví dụ như hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, còn thời điểm có hiệu lực của di chúc lại phụ thuộc vào thời điểm mà người lập di chúc chết hoặc thời điểm mà quyết định của Tòa án tuyên bố người lập di chúc chết có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, việc xác định đúng thời điểm mở thừa kế (thời điểm người lập di chúc chết) có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc. Mặt khác, xác định đúng thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định di chúc nào là di chúc có hiệu lực trong trường hợp một người có nhiều di chúc. Di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc và người lập di chúc có quyền thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung di chúc hay hủy bỏ di chúc. Sự thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể được thể hiện dưới hình thức người đó lập di chúc mới ghi nhận về việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc, nhưng cũng có thể bằng di chúc mới (mặc dù không nói rằng thay đổi hay hủy bỏ di chúc) người lập di chúc định đoạt tài sản mà nội dung định đoạt khác với di chúc đã viết trước đó. Việc đánh giá hiệu lực của di chúc như vậy dựa theo quy định tại khoản 5 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995: “Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ có bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật” [6]. Tóm lại, khi người lập di chúc còn sống thì di chúc dù có phù hợp với các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, thì di chúc cũng chưa phát sinh hiệu lực. Do di chúc chưa phát sinh hiệu lực (khi người lập di chúc chưa chết) nên những người thừa kế theo di chúc chưa có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản mà họ sẽ được hưởng. Quyền đối với tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc cho đến khi người lập di chúc chết.

1.3 Tiến trình phát triển và các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng ở Việt Nam

1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945

Dưới chế độ phong kiến, đời sống của nhân dân ta vô cùng khổ cực vì chế độ sưu cao, thuế nặng. Người nông dân chiếm đại đa số trong xã hội, nhưng bị trói buộc bởi ruộng đất của địa chủ, phong kiến. Giai cấp địa chủ chiếm số ít trong xã hội nhưng lại nắm đa số các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhà nước phong kiến dùng pháp luật trong đó có pháp luật về thừa kế để duy trì và củng cố quyền sở hữu của giai cấp địa chủ đối với ruộng đất từ đời này sang đời khác.

Chế độ phong kiến đã tồn tại ở nước ta qua nhiều thế kỷ. Trải qua nhiều triều đại, mỗi Nhà nước phong kiến đều ban hành các văn bản pháp luật để củng cố quyền lực và phục vụ việc quản lý đất nước. Từ xa xưa, các bộ cổ luật của các triều đại phong kiến đã có nhiều quy định cụ thể về thừa kế. Đáng chú ý của thời kỳ phong kiến là: Bộ luật Hồng Đức (năm 1943), Bộ luật Gia Long (năm 1815), Bộ Dân luật Bắc kỳ (năm 1931), Bộ Dân luật Trung kỳ (năm 1936). Ngoài các bộ luật, các nhà nước phong kiến còn ban hành nhiều văn bản như chiếu, chỉ, dụ, lệnh của vua…

Trong Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật hoặc Luật hình triều Lê có quy định tôn trọng ý muốn và quyền quyết định của người có tài sản. Điều 388 Bộ luật Hồng Đức quy định:

Cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruộng đất làm hương hỏa, giao cho người con trai trưởng giữ, còn thì chia nhau. Phần con của vợ lẽ, nàng hầu, thì phải kém. Nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư, thì phải theo đúng, trái thì mất phần mình.

Điều 390 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Người làm cha mẹ phải liệu tuổi già mà lập sẵn chúc thư…” [11]. Như vậy, Bộ luật Hồng Đức đã quy định quyền lập chúc thư để lại di sản, đặc biệt là những người tuổi cao.

Di chúc được lập dưới dạng văn bản gọi là chúc thư. Bộ luật Hồng Đức cũng quy định về hình thức lập di chúc tại Điều 366: “Những người làm chúc thư, văn khế mà không nhờ quan trưởng trong làng viết thay và chứng kiến, thì phải phạt 80 trượng, phạt tiền theo việc nặng nhẹ. Chúc thư văn khế ấy không có giá trị. Nếu biết chữ mà viết lấy thì được” [11].

Như vậy, người có tài sản có thể tự mình viết chúc thư. Nếu người để lại di sản không biết chữ thì chỉ được phép nhờ quan trưởng viết thay, không được nhờ người khác. Nếu nhờ người khác viết hộ di chúc mà không nhờ quan trưởng thì ngoài việc bị phạt, di chúc không có giá trị, di sản được chia theo pháp luật. Vấn đề hình thức lập di chúc trong thời kỳ này đã được coi trọng.

Bộ luật Gia Long (hay còn gọi là Hoàng Việt luật lệ) là phiên bản của Bộ luật Mãn Thanh (Trung Quốc). Bộ luật không thừa nhận quyền thừa kế của con gái mà chú trọng đến quyền lợi của con trai, thể hiện rõ việc trọng nam khinh nữ. Bộ luật cũng công nhận vai trò của việc thừa kế theo di chúc, thể hiện tại Điều 388 Bộ luật này quy định: “Nếu có mệnh lệnh của cha mẹ, phải theo đúng. Vi phạm điều này sẽ mất phần” [9].

Bộ Dân luật Bắc kỳ được ban hành bằng một Nghị định của Thống sứ Bắc kỳ ngày 30-3-1931. Bộ luật bao gồm 1.464 điều, được chia làm 4 quyển. Quyển thứ nhất bao gồm 12 thiên quy định về gia đình, chế độ hôn sản và thừa kế, trong đó có 17 điều luật quy định về thừa kế theo di chúc. Nội dung của bộ luật phản ánh được những phong tục, tập quán của người Việt Nam như: Việc thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng truyền thống và đặc trưng của người Việt Nam…

Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định người lập di chúc có quyền dành một phần di sản để thờ cúng. Việc chăm sóc nuôi dưỡng nhau giữa những người trong cùng một gia đình được coi là bổn phận của đạo đức. Bộ luật quy định con cháu không được phân chia khối tài sản của gia đình khi cha mẹ còn sống nếu không được sự đồng ý của họ. Con cháu của người chết buộc phải nhận di sản của người đó và thay họ thực hiện các nghĩa vụ về tài sản mà họ để lại… Bộ luật còn quy định cha mẹ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái, phải đảm bảo cho cuộc sống lâu dài của con cái nên họ phải để lại tài sản của mình cho những người ở thế hệ sau khi họ chết. Điều 321 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định người vợ không có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản riêng của mình nếu không được người chồng đồng ý. Người cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình tùy theo ý mình, nhưng phải giữ quyền lợi cho người vợ chính. Người lập chúc thư có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người trong những người được thừa kế. Việc truất quyền thừa kế phải lập thành văn bản do viên quản lý văn khế lập hoặc do lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư. Chúc thư phải làm thành văn bản hoặc do viên quản lý văn khế làm ra hoặc có công chứng thị thực. Chúc thư không có viên chức thị thực phải do người lập chúc thư viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên làm chứng. Người làm chứng thường là lý trưởng tại nơi trú quán của người lập chúc thư, nếu ở xa không về nơi trú quán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởng nơi hiện ở của người lập chúc thư (Điều 326 Dân luật Bắc kỳ). Chúc thư phải ghi rõ ngày, tháng năm lập chúc thư; tên, họ, tuổi, nơi trú quán của người làm chứng. Chúc thư khi đã làm xong thì lý trưởng đọc to cho mọi người cùng nghe rồi lý trưởng, người lập chúc thư, người viết hộ (nếu có) và những người làm chứng cùng ký tên vào văn bản. Có bao nhiêu người được thừa kế thì chúc thư được làm thành bấy nhiêu bản gốc để gửi cho mỗi người thừa kế một bản. Khi người lập chúc thư muốn thay đổi một phần hay toàn bộ chúc thư, thì bản chúc thư sau phải tiến hành đúng những thủ tục trên và phải nêu rõ việc người lập chúc thư thay đổi một phần hay toàn bộ bản chúc thư, nếu không nói rõ thì chỉ những điều khoản nào không hợp hoặc có trái với bản chúc thư sau mới bị bỏ mà thôi.

Điều 113 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: Khi người vợ chết trước, người chồng trở thành chủ sở hữu duy nhất tất cả của cải chung trong đó có cả phần của vợ (tức là tài sản riêng của vợ). Còn nếu chồng chết thì người vợ chỉ có quyền hưởng dụng tài sản riêng của chồng khi không còn người thừa kế nào bên nội, bên ngoại của chồng (Điều 346). Nếu người vợ góa tái giá thì tài sản riêng của chồng phải trả lại nhà chồng, tài sản riêng của vợ được mang theo đi, còn tài sản của vợ chồng thì để lại cho con (Điều 360) [14].

Bộ luật Trung kỳ hay còn gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật gồm 1709 điều, được chia làm 5 quyển. Có thể nói, Bộ luật này hầu như sao chép lại nhiều điều khoản trong Bộ luật Bắc kỳ, ví dụ: Điều 341 Bộ luật Trung kỳ giống Điều 346 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 359 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 360 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 111 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 113 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 313 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 321 Bộ Dân luật Bắc kỳ… [15].

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1990

Với thắng lợi rực rỡ của Cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu một trang sử mới của cách mạng nước ta. Ngay sau khi thành lập, nhà nước non trẻ đã phải đối phó với rất nhiều những khó khăn cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội… Để giữ vững thành quả cách mạng, Nhà nước ta đã có những chính sách vừa mềm dẻo, vừa cương quyết để tập trung quyền lực về tay Nhà nước. Trong thời kỳ này, những vấn đề lớn đều được điều chỉnh bằng các Sắc lệnh, còn những vấn đề thuộc về dân sự thì Nhà nước vẫn cho phép áp dụng các văn bản cũ, nếu nó không trái nguyên tắc vi phạm đến độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa (Sắc lệnh số 90/SL ngày 10-9-1945). Trong quan hệ về thừa kế, Nhà nước ta vẫn cho phép áp dụng các quy định trong các Bộ Dân luật Bắc kỳ, Bộ Dân luật Trung Kỳ.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội thì những điều khoản của các Bộ dân luật trở nên lạc hậu. Để xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-5-1950. Điều 5 của Sắc lệnh quy định: Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình”. Về thừa kế cũng được Sắc lệnh quy định: Con cháu hoặc vợ chồng của người chết cũng không bắt buộc phải nhận thừa kế của người ấy. Khi nhận thừa kế thì các chủ nợ của người chết cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại (Điều 10). Trong lúc còn sinh thời người chồng góa hay vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung (Điều 11) [38].

Với những quy định này, tuy còn ở mức độ nhất định nhưng nó đã thể hiện sự tiến bộ vượt bậc của pháp luật nói chung và về thừa kế nói riêng so với Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ dân luật Trung kỳ.

Sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 đã đánh dấu bước trưởng thành lớn của công tác lập pháp nước ta. Quyền thừa kế được Hiến pháp ghi nhận tại Điều 19: Nhà nước chiểu theo pháp luật để bảo hộ quyền thừa kế về tài sản của công dân” [24]. Đây là một nguyên tắc Hiến định, là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền thừa kế cho công dân. Ngày 29-12-1959 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Luật Hôn nhân và gia đình, có hiệu lực thi hành từ 13-1-1960 (gọi là Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959). Với Luật hôn nhân và gia đình đầu tiên này đã phá bỏ chế độ gia đình phụ quyền của chế độ cũ, đảm bảo chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng. Vợ chồng có quyền bình đẳng trong mọi quyền lợi, trong đó có quyền thừa kế tài sản của nhau; con cái trong và ngoài giá thú cũng được đối xử bình đẳng… [31].

Để thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Tòa án nhân dân tối cao đã thường xuyên tổng kết công tác xét xử, ban hành nhiều thông tư, hướng dẫn cho Tòa án các địa phương trong việc áp dụng thống nhất pháp luật.

Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 1964 của ngành Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn việc xét xử của Tòa án cấp dưới trong việc xét xử các vụ án tranh chấp di sản thừa kế. Theo tổng kết này thì có ba hàng thừa kế sau:

 Hàng thừa kế thứ nhất: Vợ góa hay chồng góa; các con đẻ và con nuôi của người chết; bố mẹ mất sức lao động được người để lại di sản nuôi dưỡng.

 Hàng thừa kế thứ hai: Bố mẹ còn sức lao động.

 Hàng thừa kế thứ ba: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi.

Ngày 27-8-1968, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 594/NCPL hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp thừa kế. Thông tư đã nêu rõ các đặc điểm cơ bản (thực chất là các nguyên tắc) của chế độ thừa kế của nhà nước ta: Nam nữ bình đẳng về quyền thừa kế, người thừa kế được hưởng các quyền tài sản của người chết để lại và phải chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi giá trị tài sản nhận được, tôn trọng quyền định đoạt bằng di chúc của người có di sản, đồng thời bảo vệ thích đáng quyền lợi của một số người thừa kế theo luật. Thông tư nói rõ: Di sản thừa kế bao gồm không những quyền sở hữu cá nhân về những tài sản mà người chết để lại mà còn gồm cả những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản phát sinh do quan hệ hợp đồng hoặc do việc gây thiệt hại mà người chết để lại. Về thừa kế theo pháp luật, Thông tư đưa ra khái niệm diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật, thứ tự hưởng di sản căn cứ vào hàng thừa kế. Diện những người thừa kế theo pháp luật gồm: Vợ góa (vợ cả góa và vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, con đẻ và con nuôi, bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột. Như vậy, trong diện những người thừa kế theo pháp luật có thêm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Những người trong diện thừa kế được xếp làm hai hàng thừa kế:

Hàng thừa kế thứ nhất: Vợ góa (vợ cả góa và vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi, bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi.

Hàng thừa kế thứ hai: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.

Thông tư đã ghi nhận: Anh chị em cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ có quan hệ huyết thống với nhau không hoàn toàn nhưng trong nhiều gia đình họ đối xử với nhau thân mật không khác gì anh chị em cùng cha, cùng mẹ. Do đó, cần xác định họ có quyền thừa kế di sản của nhau. Về thừa kế theo di chúc: Thông tư 594 xác nhận quyền tự do định đoạt theo di chúc nhưng không được trái với chính sách và pháp luật hiện hành, không trái với tinh thần đoàn kết, tương trợ trong gia đình và phải bảo đảm đời sống cho vợ hoặc chồng, con vị thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất sức lao động và cha mẹ già yếu, túng thiếu. Do đó, người lập di chúc khi định đoạt tài sản của mình phải giữ một phần tài sản cho những người nói trên. Phần di sản bắt buộc phải dành lại cho những người này nên tính tùy theo tình hình di sản và số người thừa kế cần được bảo vệ quyền lợi, nó không nên quá thấp so với phần di sản mà họ đáng lẽ được hưởng nếu không có di chúc. Trường hợp di chúc không dành phần bắt buộc thích đáng cho những người nói trên thì cần phải điều chỉnh lại. Phần di sản dư ra sau khi đã dành những phần bắt buộc, Tòa án vẫn chiếu theo di chúc để chia cho người thừa kế được chỉ định trong di chúc.

Thông tư số 594 ngày 27-8-1968 của Tòa án nhân dân tối cao đã xóa bỏ quan điểm của Dân luật cũ thời Pháp thuộc (Điều 321 Dân luật Bắc kỳ, Điều 313 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật) về quyền tự do tuyệt đối khi lập di chúc. Đây là vấn đề mới từ thực tiễn xét xử nên ở thời điểm đó Tòa án nhân dân tối cao chưa thể ấn định cụ thể phần di sản bắt buộc này là bao nhiêu [41]. Với thắng lợi to lớn của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước ta đã hoàn toàn thống nhất năm 1975. Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước tháng 7-1976, Nhà nước ta lấy tên là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 25-3-1977 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/CP quy định về việc thực hiện thống nhất pháp luật trên cả nước. Kể từ thời điểm này, pháp luật đã được áp dụng thống nhất trong toàn quốc. Tuy nhiên, ở giai đoạn này vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định riêng về thừa kế.

Trước sự thay đổi lớn của đất nước, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã thông qua bản Hiến pháp (gọi là Hiến pháp 1980) – Hiến pháp đầu tiên trong thời kỳ thống nhất đất nước – là cơ sở nền tảng cho việc phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về thừa kế theo di chúc nói riêng. Hiến pháp năm 1980 là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản của Nhà nước. Hiến pháp đã quy định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… tạo tiền đề, cơ sở pháp lý cho việc ban hành các văn bản pháp luật về thừa kế sau này.

Điều 27 Hiến pháp năm 1980 quy định: Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ. Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”. Hiến pháp năm 1980 cũng quy định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, sự bình đẳng giữa nam và nữ, Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt, đối xử giữa các con…

Hiến pháp năm 1980 đã quy định đất đai thuộc sở hữu nhà nước. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật [25]. Để đảm bảo thống nhất đường lối xét xử, trên cơ sở tổng kết công tác xét xử, đồng thời bổ sung một số vấn đề cho phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 1980, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 81-TANDTC ngày 24-7-1981 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế. Ngay từ Phần nguyên tắc chung (Phần I), Thông tư đã quy định về quyền lập di chúc của công dân để định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Nếu không có di chúc thì mới chia thừa kế theo pháp luật, tôn trọng quyền định đoạt bằng di chúc của người có di sản, đồng thời bảo hộ thích đáng quyền lợi của một số người thừa kế theo luật (người thừa kế bắt buộc không phụ thuộc vào nội dung di chúc), phụ nữ và nam giới bình đẳng về quyền lập di chúc, người thừa kế có quyền nhận hay không nhận di sản thừa kế, người nhận thừa kế được hưởng các tài sản và các quyền về tài sản của người chết để lại, đồng thời phải chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ về tài sản mà người chết để lại trong phạm vi giá trị tài sản đã nhận được.

Thông tư số 81 đã hướng dẫn về việc xác định di sản thừa kế, diện và hàng thừa kế, việc phân chia di sản thừa kế… Đặc biệt, Thông tư đã dành chương IV để hướng dẫn về thừa kế theo di chúc, trong đó quy định rõ về hình thức của di chúc, quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc, nghĩa vụ phải dành lại một phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc của người lập di chúc (hạn chế quyền của người lập di chúc)… Những người thừa kế bắt buộc gồm: Vợ góa hoặc chồng góa, con chưa thành niên hoặc tuy đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, bố mẹ già yếu và túng thiếu. Phần di sản phải dành cho mỗi người thừa kế bắt buộc ít nhất là 2/3 suất của thừa kế theo pháp luật [44].

Ngày 29-12-1986 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 3-1-1987 đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật hôn nhân gia đình nước ta, thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Luật hôn nhân và gia đình 1986 có những điều khoản quan trọng đối với những quy định của pháp luật thừa kế. Ví dụ: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 xác định nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình là cơ sở cho pháp luật thừa kế xác định ai là người thừa kế được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc [32]. Thắng lợi của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã tạo bước ngoặt mới trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã bị xóa bỏ, nền kinh tế nhiều thành phần (trong đó có kinh tế tư nhân) đã được pháp luật thừa nhận và khuyến khích phát triển.

Ngày 29-12-1987 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Đất đai (gọi là Luật Đất đai năm 1987). Luật Đất đai đã quy định chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai và đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho người sử dụng đất để sử dụng ổn định, lâu dài hoặc tạm thời, có thời hạn. Điều 5 của Luật Đất đai năm 1987 quy định: “Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn, chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức, nhận đất được giao mà không sử dụng, sử dụng đất không đúng mục đích, tự tiện sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm hủy hoại đất đai”. Nhà nước bảo đảm cho người sử dụng đất được hưởng những quyền lợi hợp pháp trên đất được giao, kể cả quyền chuyển, nhượng, bán thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao khi không còn sử dụng đất và đất đó được giao cho người khác sử dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định [28].

1.3.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến 1 tháng 7 năm 1996

Để đáp ứng với sự biến động, phát triển không ngừng của xã hội, ngày 30-8-1990 Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh Thừa kế, có hiệu lực từ ngày 10-9-1990. Đây là văn bản pháp luật có hệ thống và ở tầm văn bản pháp lý cao nhất về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng kể từ ngày thành lập nước. Pháp lệnh Thừa kế gồm 38 điều, được chia làm 6 chương, trong đó đã xác định được những nguyên tắc cơ bản về thừa kế, về quyền bình đẳng về thừa kế của công dân. Pháp lệnh Thừa kế đưa ra những khái niệm về: Thời điểm mở thừa kế, địa điểm mở thừa kế, di sản, người thừa kế… Thừa kế theo di chúc được Pháp lệnh quy định tại chương II từ Điều 10 đến Điều 23. Pháp lệnh đã quy định về quyền của người lập di chúc. Theo quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh thì công dân có quyền lập di chúc để chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một hoặc nhiều người trong hoặc ngoài các hàng thừa kế theo pháp luật, cũng như cho Nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế. Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, phân định tài sản cho người thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lý do. Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung di chúc đã lập, thay thế di chúc đã lập bằng di chúc khác, hủy bỏ di chúc.

Pháp lệnh Thừa kế cũng quy định về di chúc hợp pháp là di chúc do người từ đủ mười tám tuổi trở lên tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật. Di chúc cũng được coi là hợp pháp nếu do người từ đủ mười sáu tuổi trở lên nhưng chưa đủ mười tám tuổi tự nguyện lập trong khi minh mẫn và phải được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật. Di chúc do công dân Việt Nam lập ở nước ngoài theo pháp luật của nước ngoài, nếu có nội dung không trái với pháp luật Việt Nam cũng được coi là di chúc hợp pháp.

Về nội dung của di chúc được Pháp lệnh quy định tại Điều 13: Trong bản di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc, họ, tên và nơi thường trú của người lập di chúc, họ, tên người được hưởng di sản, tên cơ quan tổ chức được hưởng di sản… Đặc biệt, Pháp lệnh quy định rõ về việc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Pháp lệnh quy định về hiệu lực của di chúc viết được cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân chứng thực, di chúc viết được cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự

của Việt Nam ở nước ngoài chứng thực, di chúc viết không có chứng thực, xác nhận và di chúc miệng…Pháp lệnh Thừa kế đã quy định cụ thể về những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc tại Điều 20. Theo quy định này thì trong trường hợp không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, thì con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên không đủ khả năng lao động và túng thiếu của người lập di chúc vẫn được hưởng phần di sản bằng ít nhất là hai phần ba suất đó, trừ trường hợp họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Pháp lệnh. Đây là sự kế thừa và pháp điển hóa so với quy định về người thừa kế bắt buộc tại Thông tư số 81-TANDTC ngày 24-7-1981 của Tòa án nhân dân tối cao. Pháp lệnh cũng quy định về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc, hiệu lực của di chúc, di sản dùng vào việc thờ cúng [35].

Để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới do sự đổi mới toàn diện của đất nước kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng, Quốc hội nước ta đã sửa đổi Hiến pháp năm 1980. Hồi 11 giờ 45 phút ngày 15-4-1992 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 11 đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định về việc tiếp tục đưa đất nước ta đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tư tưởng chủ đạo này, trong chương II về chế độ kinh tế, Hiến pháp đã quy định việc đảm bảo tính thống nhất của sự phát triển kinh tế sao cho nền kinh tế được phát triển theo cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế khác nhau theo định hướng xã hội chủ nghĩa…

Hiến pháp năm 1992 đã quy định về quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, quyền bình đẳng giữa nam và nữ, Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt, đối xử giữa các con. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác… Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.

Hiến pháp năm 1992 quy định về việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước. Để thi hành Hiến pháp năm 1992, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX đã thông qua Luật Đất đai năm 1993, có hiệu lực kể từ 15-10-1993. Kể từ đây, việc “được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật” của tổ chức và cá nhân theo quy định tại Điều 18 Hiến pháp năm 1992 đã được thể chế hóa. Khoản 2 Điều 3 Luật Đất đai năm 1993 quy định:

Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất.

Các quyền nói trên chỉ được thực hiện trong thời hạn giao đất và đúng mục đích sử dụng của đất được giao theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật.

Điều 76 Luật Đất đai năm 1993 quy định:

  1.   Cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, sau khi chết thì quyền sử dụng đất của họ được để lại cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế.
  2.  Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu trong hộ có thành viên chết thì các thành viên khác trong hộ được quyền tiếp tục sử dụng diện tích đất mà Nhà nước đã giao cho hộ. Trường hợp trong hộ gia đình không còn thành viên nào thì Nhà nước thu hồi đất.
  3.   Cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở, sau khi chết, quyền sử dụng đất của họ được để lại cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế [29]. Với những quy định trên, quyền sử dụng đất đã được coi là di sản thừa kế.

1.3.4. Giai đoạn từ 1-7-1996 đến nay

Với đường lối chính trị, kinh tế đúng đắn được Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong Hiến pháp năm 1992, tất cả mọi mặt trong đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đều thay đổi trên mọi bình diện. Vì vậy, trong đời sống dân sự cũng phát sinh nhiều vấn đề mà pháp luật chưa kịp điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ. Các văn bản pháp luật dưới nhiều hình thức như: Nghị định, Pháp lệnh, Thông tư, Nghị quyết… chưa đủ bao quát để điều chỉnh một cách rộng khắp các quan hệ dân sự nói chung và vấn đề các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Chính từ thực tiễn đòi hỏi, ngày 28-10-1995, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Bộ luật dân sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (gọi là Bộ luật dân sự năm 1995). Bộ luật dân sự năm 1995 tương đối đồ sộ với 7 phần, 838 điều. Trong mỗi phần được chia làm nhiều chương, mục. Bộ luật có hiệu lực kể từ ngày 1-7-1996 (riêng những quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực áp dụng kể từ ngày Luật Đất đai 1993 có hiệu lực 15-10-1993).

Bộ luật dân sự năm 1995 là công cụ pháp lý thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Bộ luật góp phần bảo đảm cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong nhân dân. Bộ luật đã dành hẳn Phần thứ tư và Chương VI Phần thứ năm để quy định về thừa kế với tổng số 63 điều luật (nếu tính cả 9 điều thuộc chương những quy định chung về chuyển quyền sử dụng đất mà thừa kế quyền sử dụng đất phải áp dụng thì tổng số lên đến 72 điều). Bộ luật đã đưa ra những khái niệm về thời điểm, địa điểm mở thừa kế, người thừa kế, người quản lý di sản, di chúc… Đặc biệt, Bộ luật có quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người quản lý di sản, người thừa kế, việc từ chối nhận di sản, về những người không được hưởng di sản…Do sự phát triển đất nước, các tranh chấp dân sự diễn ra ngày càng phức tạp

Bộ luật dân sự năm 1995 đã bộc lộ những khiếm khuyết của nó. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI, từ ngày 5-5-2005 đến ngày 14-6-2005 Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật dân sự năm 2005. Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2006. Với 7 phần, 777 điều, Bộ luật dân sự năm 2005 không “đồ sộ” được như Bộ luật dân sự năm 1995, nhưng những quy định về thừa kế có nhiều tiến bộ hơn Bộ luật dân sự năm 1995, đặc biệt về thừa kế quyền sử dụng đất. Về các điều kiện có hiệu lực của di chúc thì những quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về cơ bản vẫn được Bộ luật dân sự năm 2005 giữ lại và có sự phát triển.

2. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc

2.1. Người lập di chúc

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì người lập di chúc phải đáp ứng được những điều kiện nhất định thì di chúc mới có hiệu lực. Người lập di chúc phải đảm bảo được những điều kiện sau đây:

Điều 650 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định về người lập di chúc:

1- Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

2- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Như vậy, pháp luật dân sự đã quy định cụ thể về người được lập di chúc. quy định tại các điều luật trên có thể nhận thấy hai yêu cầu về người lập di chúc, đó là:

 Yêu cầu về độ tuổi của người lập di chúc.

 Yêu cầu về nhận thức của người lập di chúc.

2.1.1. Yêu cầu về độ tuổi của người lập di chúc

Pháp luật dân sự quy định chỉ người thành niên mới có quyền lập di chúc, còn người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi muốn lập di chúc phải được sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó.

Có quy định trên bởi vì chỉ khi đạt đến một độ tuổi nhất định thì con người mới có đủ nhận thức để điều chỉnh hành vi của mình. Đối với những người đã thành niên, nhưng bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì những người đó không có quyền lập di chúc. Trong trường hợp những người này lập di chúc, thì di chúc đó không phát sinh hiệu lực pháp luật. Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về người thành niên: Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên (Điều 20). Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp người thành niên đó bị mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, những người thành niên bị mất quyền lập di chúc khi họ là người:

 Mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác.

 Không thể nhận thức được hành vi của mình.

 Không thể điều chỉnh được hành vi của mình [6].

Pháp luật dân sự của Nhà nước ta cũng quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Người mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi mặc dù là người chưa thành niên, nhưng họ có những nhận thức nhất định. Về mặt thực tế thì có người trong số họ đã có tài sản riêng do được thừa kế hoặc được tặng cho, thậm chí có người đã tích lũy từ lao động phù hợp với sức lao động của mình. Để đảm bảo phần nào quyền định đoạt tài sản của họ, pháp luật đã cho phép họ lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ đồng ý. Bàn về quy định này còn có những ý kiến khác nhau do chưa có sự hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

  Cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý là đồng ý về việc cho phép người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc hay là đồng ý về nội dung di chúc?

 Sự đồng ý của cha hoặc mẹ hay là cả cha và mẹ. Trường hợp nào thì cần đến sự đồng ý của người giám hộ? Về vấn đề thứ nhất, chúng tôi cho rằng chỉ là việc đồng ý cho phép người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc vì nếu hiểu là đồng ý với nội dung di chúc thì vô hình chung pháp luật đã can thiệp đến quyền tự định đoạt, đến ý chí tự nguyện của người lập di chúc, trong khi ý chí tự nguyện là một trong những điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp. Với tư cách là người thừa kế hàng thứ nhất theo pháp luật của người con, người cha, người mẹ có thể can thiệp vào nội dung của di chúc, can thiệp vào sự định đoạt của người con nếu được hiểu theo cách việc lập di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được sự đồng ý của cha, mẹ về nội dung di chúc. Và một điều đương nhiên, nếu hiểu cha mẹ phải đồng ý về nội dung di chúc thì đã bao hàm cả việc đồng ý cho lập di chúc.

Về vấn đề thứ hai, căn cứ vào cách hành văn của điều luật thì chỉ cần một trong hai người là cha hoặc mẹ đồng ý là đủ, mà không cần thiết phải được sự đồng ý của hai người. Pháp luật dân sự cũng đã quy định rõ ràng về việc giám hộ tại Mục 5 Chương II, Phần thứ nhất Bộ luật dân sự năm 1995. Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước (gọi là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình (gọi là người được giám hộ).

Trong quan hệ pháp luật thừa kế theo di chúc, thì người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi chỉ có quyền lập di chúc khi được sự đồng ý của người giám hộ trong trường hợp người chưa thành niên này không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ hoặc cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Một vấn đề cần đặt ra khi nghiên cứu về sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với hành vi lập di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, đó là: Sự đồng ý này phải được thể hiện dưới hình thức như thế nào? Có bắt buộc việc đồng ý phải được thể hiện bằng văn bản riêng hay chỉ cần xác nhận vào di chúc, hay chỉ cần bằng miệng? Sự đồng ý đó có cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hay không? Sự đồng ý được thể hiện trước hay sau khi người chưa thành niên lập di chúc?…Đây là một câu hỏi vì vấn đề này chưa được sự hướng dẫn, giải đáp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2.1.2. Yêu cầu về nhận thức

Kết quả nghiên cứu về y học cho thấy độ tuổi và nhận thức có quan hệ mật thiết với nhau. Con người chỉ khi đạt đến một độ tuổi nhất định thì mới có đủ nhận thức để điều chỉnh được hành vi dân sự của mình (trong đó có hành vi lập di chúc), trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Pháp luật dân sự nước ta quy định người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, độ tuổi và khả năng nhận thức là hai tiêu chí để xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tại khoản 1 Điều 655 Bộ luật dân sự năm 1995 và điểm a, khoản 1 Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định như nhau về nhận thức của người lập di chúc: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc…”.

Tuy nhiên, người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt đến mức độ nào? Người lập di chúc có phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc hay không? Nếu người lập di chúc phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc thì cơ quan nào có thẩm quyền giám định? Có cần hay không cần kết quả giám định sức khỏe thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được chứng thực vào di chúc ?…Hiện nay, pháp luật dân sự của nước ta chưa có quy định nào về việc người lập di chúc phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc. Vì vậy, người lập di chúc có thể khám sức khỏe hoặc không khám sức khỏe trước khi lập di chúc. Có một số trường hợp khám sức khỏe thì cơ quan khám sức khỏe cũng không thống nhất: Có trường hợp khám tại trung tâm y tế cấp huyện, tỉnh; nhưng cũng có trường hợp lại đi khám ở các bệnh viện về tâm thần.

Trên thực tế người lập di chúc ít khi đi giám định sức khỏe, khám sức khỏe trước khi lập di chúc. Vì vậy, tình trạng sức khỏe của người lập di chúc tại thời điểm lập di chúc không được thể hiện. Khi có tranh chấp xảy ra, bên đương sự nào cho rằng người lập di chúc không đủ sức khỏe, ảnh hưởng đến sự minh mẫn của người lập di chúc trong khi lập di chúc thì họ phải có nghĩa vụ chứng minh. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế tại Tòa án nhân dân cho thấy tình trạng này diễn ra tương đối phổ biến. Bên yêu cầu chia thừa kế theo di chúc có nghĩa vụ xuất trình trước Tòa án các chứng cứ liên quan đến việc người lập di chúc hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc. Ngược lại, bên yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật có nghĩa vụ xuất trình các chứng cứ để chứng minh người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt để bác bỏ yêu cầu chia thừa kế theo di chúc.

Về nguyên tắc, tất cả các di chúc đều được coi là do người để lại di sản lập trong lúc minh mẫn, sáng suốt. Vì vậy, đương sự nào cho rằng khi lập di chúc người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa án có thẩm quyền. Chỉ khi có đầy đủ cơ sở khẳng định người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt như: Kết luận của cơ quan y tế, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án… thì Tòa án có thẩm quyền tuyên bố di chúc vô hiệu. Thông thường, những di chúc được chứng nhận, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ít khi xảy ra tranh chấp về việc người lập di chúc có minh mẫn, sáng suốt hay không. Tranh chấp về việc minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc lại thường xảy ra đối với những di chúc không có chứng nhận, chứng thực. Vì vậy, để hạn chế tranh chấp thì việc lập di chúc có chứng thực, chứng nhận cần được khuyến khích. Quy định về vấn đề này, pháp luật dân sự Cộng hòa Pháp chỉ yêu cầu người lập di chúc có tinh thần minh mẫn (Điều 901 Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp). Còn Điều 963 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: “Người lập di chúc tại thời điểm lập di chúc phải có đủ năng lực để làm việc này” [5].

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chính là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Nếu như năng lực pháp luật của cá nhân phát sinh ngay từ khi cá nhân được sinh ra thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ phát sinh đầy đủ khi người đó đạt đến độ tuổi nhất định (đủ 18 tuổi); nếu như năng lực pháp luật của cá nhân chỉ chấm dứt khi người đó chết thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân chấm dứt khi người đó bị mất năng lực hành vi dân sự.

Như vậy, một người được coi là có năng lực hành vi dân sự (trong đó có năng lực hành vi viết di chúc), khi người đó bằng khả năng của mình thực hiện hành vi, mà bằng hành vi đó, người đó đã xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ pháp luật thừa kế, người lập di chúc bằng hành vi định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình thông qua việc lập di chúc, người lập di chúc đã xác lập quyền hưởng di sản cho người được thừa kế theo di chúc. Cũng đồng thời với việc xác lập quyền hưởng di sản cho người thừa kế theo di chúc, người lập di chúc đương nhiên đã xác lập nghĩa vụ cho người quản lý di sản. Bằng hành vi lập di chúc, người lập di chúc đã thực hiện quyền định đoạt đối với những tài sản của mình cho người thừa kế được chỉ định trong di chúc. Việc thực hiện quyền của người lập di chúc thể hiện ở chỗ: Người lập di chúc có quyền định đoạt cho ai, cho ai cho bao nhiêu, chỉ cho sử dụng tài sản hay cho sở hữu tài sản…

Pháp luật dân sự không quy định về việc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự bị mất quyền lập di chúc. Chỉ trong những trường hợp nhất định: Một người bị nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn tới phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan hoặc tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời với quyết định tuyên bố một người hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. Như vậy, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không phải là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình theo quy định của Điều 650 Bộ luật dân sự năm 1995 nên họ vẫn có quyền lập di chúc mà không phải được sự đồng ý của người đại diện.

Đối với những người đã thành niên nhưng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì không có quyền lập di chúc. Nếu họ lập di chúc, thì di chúc đó không được công nhận.

2.2. ý chí của người lập di chúc

2.2.1. Người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện

Nguyên tắc tự nguyện trong việc tham gia các giao dịch dân sự là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Trong giao lưu dân sự, các bên đều phải hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào.

Lập di chúc là giao dịch dân sự, là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc. Vì vậy, cũng như các giao dịch dân sự khác, việc lập di chúc cũng phải thể hiện ý chí tự nguyện của người lập di chúc. Tự nguyện được hiểu theo nghĩa khái quát chính là việc thực hiện một việc gì đó hoàn toàn theo ý mình, do mình nghĩ ra và thực hiện. Về mặt bản chất, tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Vì vậy, khi đánh giá

ý chí của một người về một vấn đề nào đó có phải tự nguyện hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: ý chí và sự bày tỏ ý chí. ý chí là cái bên trong, là cái mà người khác khó có thể nhận biết được, nếu ý chí đó chưa được thể hiện ra ngoài bằng hành động thực tiễn. Để người khác nhận biết được mong muốn của mình, con người phải thể hiện ý chí bằng những hành vi cụ thể. ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau. Trong việc lập di chúc, người lập di chúc thể hiện ý chí của mình thông qua hành vi lập di chúc.

Thông qua việc cho người này nhiều, người kia ít… người lập di chúc thể hiện tâm tư, tình cảm… với người thừa kế. Vì vậy, muốn xác định một di chúc có phải là ý chí tự nguyện của người lập di chúc hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất giữa ý chí của người lập di chúc và sự thể hiện ý chí đó trong nội dung của di chúc. Chỉ khi nào di chúc phản ánh một cách trung thực, khách quan những mong muốn của người lập di chúc thì sự định đoạt đó mới được coi là tự nguyện.

Thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế theo di chúc cho thấy, việc xác định di chúc có được lập một cách tự nguyện hay không là một vấn đề gây nhiều khó khăn cho Toà án. Một bên đương sự xuất trình di chúc và yêu cầu được chia thừa kế theo di chúc và họ cho rằng di chúc hoàn toàn do người để lại di sản tự nguyện lập. Đương sự phía bên kia thì lại cho rằng, nguyên nhân của sự phân chia di sản không công bằng (đa số các di chúc đều có sự phân chia di sản khác nhau, dẫn đến tình trạng người được nhiều, người được ít) là do người lập di chúc không tự nguyện. Để giải quyết các vụ án này, trước tiên người Thẩm phán buộc phải yêu cầu cả hai bên đương sự xuất trình những chứng cứ để chứng minh cho những lời khai của mình. Bên cạnh đó, việc lấy lời khai nhân chứng, xác minh chính quyền địa phương, đối chất… cũng là những biện pháp cần thiết để tìm ra sự thật của vụ án: Người lập di chúc có tự nguyện lập di chúc hay không?…

2.2.2. Người lập di chúc không bị đe dọa

Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của những người thân thích. Cũng như các loại giao dịch dân sự khác, đe dọa trong việc lập di chúc trước hết phải được thực hiện bằng hành vi cố ý. Hành vi cố ý này phải có sự toan tính từ phía người đe dọa về việc đe dọa người lập di chúc như thế nào, hình thức, địa điểm đe dọa, phương tiện để thực hiện việc đe dọa… Hậu quả của việc thực hiện hành vi đe dọa là người lập di chúc phải sợ hãi đến mức phải lập di chúc theo ý muốn của người đe dọa. Việc phải lập di chúc đó có thể không gây thiệt hại cho người lập di chúc về tính mạng, sức khỏe, tài sản vì việc đe dọa mới ở mức độ nhẹ. Thực tế cho thấy, người lập di chúc không bao giờ bị thiệt hại về tài sản cả, vì khi chết, họ không thể mang theo được tài sản mà họ đang có và chỉ khi người để lại di sản chết thì di chúc mới phát sinh hiệu lực. Vì vậy, đối với đe dọa trong việc lập di chúc thì người lập di chúc luôn luôn không bị thiệt hại về tài sản. Người bị thiệt hại về tài sản sẽ là những người thân thích của người lập di chúc vì khối tài sản của người lập di chúc có hạn, nên cho người này hưởng rồi thì đương nhiên những người khác không còn để hưởng. Tuy nhiên, do bị đe dọa nên người lập di chúc phải viết di chúc theo ý kiến của người đe dọa, nên sẽ có ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của người lập di chúc. Ví dụ: Người lập di chúc tên là Nguyễn Văn A, có 4 con là Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn E. Ông A được C chăm sóc, nuôi dưỡng…, còn B, D, E đối xử ngược đãi với ông A. Vì vậy, ông A tuyên bố với mọi người là sau này sẽ để lại toàn bộ tài sản cho C và ông A đã lập di chúc cho C được hưởng toàn bộ tài sản của mình. Biết được sự việc trên, B, D và E đã bàn bạc với nhau đe dọa buộc ông A phải lập di chúc khác có nội dung cho B, D, E cùng được hưởng di sản của ông A. Như vậy, việc ông A phải lập di chúc sau đã ảnh hưởng đến quyền lợi về tài sản của C, nhưng lại ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của người lập di chúc là ông A.

Như đã phân tích, khi bị đe dọa thì người lập di chúc không thể hiện được ý chí tự nguyện, mà lại thể hiện ý chí của người đe dọa. Vì vậy, trong trường hợp người lập di chúc bị đe dọa thì di chúc đó bị vô hiệu, không phát sinh hiệu lực pháp luật. Trong thực tế đã xảy ra không ít những trường hợp mà các đương sự khai là người lập di chúc bị đe dọa. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác minh, lấy lời khai nhân chứng, thậm chí kiểm tra cả những vật chứng (nếu có)… Tuy nhiên, việc xác định người khác đã can thiệp vào việc lập di chúc đến mức độ nào có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét hiệu lực pháp luật của di chúc. Vấn đề đặt ra là sự can thiệp đó đã đến mức làm cho người lập di chúc sợ hãi và phải lập di chúc theo ý muốn của người can thiệp hay chưa? Còn khi đã lập di chúc theo ý chí của người khác thì đương nhiên đã gây thiệt hại cho người lập di chúc như đã phân tích ở phần trên. Để xem xét về việc người lập di chúc đã đến mức sợ hãi hay chưa là một vấn đề rất khó, đòi hỏi Tòa án phải cân nhắc kỹ lưỡng toàn bộ các chứng cứ của vụ án. Trường hợp người can thiệp đã bị bản án của Tòa án xử lý về hành vi đe dọa rồi thì sẽ có nhiều thuận lợi cho việc xem xét.

Ví dụ: Một người có hành vi đe dọa người lập di chúc để buộc người lập di chúc phải viết di chúc không đúng với ý chí của người lập di chúc. Để thực hiện hành vi đe dọa của mình, anh ta đã dùng vũ lực và gây ra thương tích nặng cho người lập di chúc đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Bằng bản án hình sự, Tòa án đã xác định có hành vi đe dọa trong việc lập di chúc và có hành vi cố ý gây thương tích, đồng thời Tòa án đã xử lý về mặt hình sự đối với hành vi cố ý gây thương tích. Sau đó do người lập di chúc chết, người được thừa kế theo di chúc khởi kiện yêu cầu được thừa kế theo di chúc. Trong trường hợp này, Tòa án dễ dàng trong việc tuyên bố về việc di chúc trên không có hiệu lực pháp luật do người lập di chúc bị đe dọa. Đối với trường hợp các bên có ý kiến khác nhau về việc người lập di chúc có bị đe dọa trong khi lập di chúc hay không, thì cả hai bên đương sự đều phải có nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2005).

Bên đương sự cho rằng, người lập di chúc bị đe dọa trong khi lập di chúc phải có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh. Nếu các chứng cứ do bên khai rằng có việc đe dọa không đủ hoặc không có cơ sở tin cậy, thì Tòa án công nhận di chúc.Đã có không ít những trường hợp xảy ra trong thực tế, mặc dù có sự can thiệp của người khác, nhưng chưa đến mức làm cho người lập di chúc sợ hãi phải viết di chúc trái với ý muốn của mình. Người lập di chúc vẫn lập di chúc một cách tự nguyện, thể hiện ý chí của mình. Do vậy, di chúc vẫn có hiệu lực.

2.2.3. Người lập di chúc không bị lừa dối

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó (Điều 142 Bộ luật dân sự năm 1995). Lừa dối là thủ đoạn có tính toán trước của người này (người lừa dối) đối với người khác (người bị lừa dối) nhằm làm cho người bị lừa dối hiểu sai vấn đề, dẫn đến quyết định một việc gì đó theo mục đích đã định sẵn của người lừa dối. Thủ đoạn của người lừa dối có thể bằng lời nói, có thể bằng hành động. Mục đích của người lừa dối là làm cho người bị lừa dối hiểu sai vấn đề, dẫn đến những quyết định không đúng, có lợi cho người lừa dối. Trong việc lập di chúc, người lừa dối làm cho người lập di chúc hiểu sai lệch về những người thừa kế, dẫn đến quyết định phân chia di sản theo ý muốn của người lừa dối.

Di chúc là giao dịch dân sự đơn phương, nó chỉ thể hiện ý chí của người lập di chúc. ý chí của người lập di chúc phải hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt trong khi minh mẫn và sáng suốt. Mọi hành vi lừa dối, đe dọa, cưỡng ép… người lập di chúc đều bị coi là trái pháp luật. Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, hầu như không có việc các đương sự tranh chấp về di chúc có bị lừa dối hay không. Trường hợp nếu có tranh chấp, thì việc giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng là vấn đề khó vì việc chứng minh rằng người lập di chúc bị lừa dối là việc không đơn giản.

2.2.4. Chỉ định người thừa kế, truất quyền thừa kế, phân định di sản cho người thừa kế

Đây là quyền của người lập di chúc được quy định tại khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005) [6], [7]. Chỉ định người thừa kế là hành vi của người lập di chúc cho phép người nào đó được hưởng phần tài sản thuộc sở hữu của mình, thông qua việc lập di chúc. Một nội dung không thể thiếu được của di chúc đó là: Ai là người được hưởng di sản và được hưởng những tài sản nào, số lượng, đặc điểm, chủng loại tài sản. Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế là người bất kỳ, mà không bó buộc trong số những người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc. Người lập di chúc cũng có quyền chia cho người này nhiều hơn người kia, chia cho người này động sản, người kia bất động sản, người khác quyền tài sản mà không buộc phải chia đều cho những người đã được chỉ định. Việc chỉ định người thừa kế và phân định di sản cho người thừa kế là một nội dung không thể thiếu của di chúc.

Người bị truất quyền hưởng di sản phải là người được thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc. Người lập di chúc có thể chỉ rõ trong di chúc những người thừa kế theo pháp luật nào của người lập di chúc bị truất quyền hưởng thừa kế. Tuy nhiên, có nhiều di chúc, người lập di chúc chỉ chỉ định người được hưởng thừa kế theo di chúc, vậy những người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc có bị coi là người bị truất quyền quyền hưởng di sản hay không. Bàn về vấn đề này, hiện nay trong khoa học pháp lý còn có hai quan điểm khác nhau:

 Quan điểm thứ nhất cho rằng, khi người lập di chúc có di chúc chỉ định một số người thừa kế theo pháp luật hoặc những người khác được hưởng thừa kế theo di chúc, thì những người thừa kế theo pháp luật còn lại là người bị truất quyền hưởng di sản. Những người theo quan điểm này cho rằng, đây là hình thức truất quyền hưởng di sản gián tiếp. Nếu như người để lại di sản không có di chúc thì đương nhiên những người

thừa kế theo pháp luật được hưởng di sản, cho nên nếu như di chúc đã định đoạt toàn bộ tài sản thì đương nhiên những người thừa kế theo pháp luật còn lại (nếu người được hưởng thừa kế theo di chúc là một hoặc một vài người thừa kế theo pháp luật) đã bị truất toàn bộ quyền hưởng di sản. Nếu di chúc chỉ định đoạt phần lớn di sản, phần di sản còn lại được chia theo pháp luật thì cũng chính là việc người lập di chúc đã truất một phần quyền hưởng di sản của những người thừa kế theo pháp luật.

 Quan điểm thứ hai cho rằng, những người thừa kế theo pháp luật không phải là người bị truất quyền hưởng di sản trong trường hợp di chúc đã định đoạt di sản cho những người khác, mà họ chỉ là những người không được hưởng thừa kế theo di chúc mà thôi. Những người thừa kế theo pháp luật không được hưởng di sản thừa kế vì người lập di chúc đã định đoạt toàn bộ di sản cho người thừa kế theo di chúc, nên không còn di sản để chia. Những người theo quan điểm này lập luận rằng, những người bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản thường là những người làm cho người lập di chúc phải buồn phiền, đau lòng… khi còn sống. Còn những người không được chỉ định thừa kế theo di chúc chỉ là những người không được người lập di chúc yêu quý. Mặt khác, trong trường hợp di chúc chưa định đoạt toàn bộ di sản thì phần di sản còn lại sẽ được chia cho những người thừa kế theo pháp luật, mà người bị truất quyền hưởng di sản thì không được chia. Như vậy, rõ ràng người không được hưởng thừa kế theo di chúc và người bị truất quyền hưởng thừa kế hoàn toàn khác nhau. Chúng tôi thấy rằng, quan điểm thứ hai là có cơ sở. Tuy nhiên, vấn đề này cũng cần có ý kiến chính thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để tránh những cách hiểu khác nhau. Trên thế giới không phải chỉ riêng Bộ luật dân sự Việt Nam quy định quyền này cho người lập di chúc. Điều 893 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định:

Trong trường hợp người để lại thừa kế đã tuyên bố bằng di chúc loại bỏ một người thừa kế giả định nào đó, thì người thực hiện di chúc phải yêu cầu Tòa hôn nhân gia đình quyết định ngay lập tức sau khi di chúc đã có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này việc hủy bỏ quyền thừa kế hồi tố trở lại thời điểm người để lại di chúc chết [8].

Như vậy, Bộ luật dân sự Nhật Bản cũng quy định quyền truất quyền hưởng di sản của những người thừa kế. Tuy nhiên, thủ tục yêu cầu thực hiện việc truất quyền có chặt chẽ hơn so với pháp luật dân sự Việt Nam.

2.2.5. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản

Cũng như mọi người trong xã hội, bên cạnh những quyền về tài sản, người lập di chúc còn có những nghĩa vụ về tài sản. Nếu người để lại di sản không có di chúc thì những người thừa kế theo pháp luật của họ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản. Trường hợp người lập di chúc chỉ định đoạt một phần di sản, nhưng không giao nghĩa vụ cho những người thừa kế, thì những người thừa kế vẫn có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Nếu người để lại di sản có di chúc mà di chúc định đoạt toàn bộ di sản, nhưng lại không giao nghĩa vụ cho những người thừa kế, thì những người thừa kế theo di chúc vẫn phải thanh toán nghĩa vụ tương ứng với kỷ phần được hưởng và trong phạm vi di sản.

Trong di chúc, người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản. Người lập di chúc có quyền phân định cho người thừa kế này nhiều di sản hơn người thừa kế kia, nhưng lại giao cho người thừa kế kia nhiều nghĩa vụ hơn (nhưng vẫn trong phạm vi di sản) người thừa kế này. Người lập di chúc toàn quyền quyết định trong việc giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi phần mà người lập di chúc cho người thừa kế được hưởng mà không phải hỏi ý kiến của người thừa kế.

2.2.6. Quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế di chúc

Đây là quyền của người lập di chúc, được pháp luật ghi nhận tại Điều 667 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005) [6], [7]. Sửa đổi di chúc là hành vi của người lập di chúc bằng ý chí tự nguyện của mình phủ nhận một phần di chúc đã lập. Phần di chúc bị sửa đổi sẽ không còn giá trị và nhường vào đó, quyết định mới của người lập di chúc sẽ có giá trị pháp lý. Đối với những phần di chúc không bị sửa đổi vẫn có hiệu lực pháp luật mà không bị ảnh hưởng bởi phần bị sửa đổi. Bổ sung di chúc là hành vi của người lập di chúc bổ sung nội dung của di chúc mà trong nội dung của di chúc đã lập chưa đề cập đến hoặc đã đề cập nhưng không đầy đủ. Việc bổ sung di chúc có thể làm cho di chúc rõ ràng, cụ thể, chi tiết hơn. Ví dụ: Ông Nguyễn Văn X là chủ sở hữu của hai ngôi nhà, trong đó có nhà số 84 phố Lý Thường Kiệt và nhà số 48 phố Nguyễn Chí Thanh, thành phố Hà Nội. Năm 2003, ông X lập di chúc định đoạt cho con trai trưởng là Nguyễn Văn A ngôi nhà số 84 phố Lý Thường Kiệt. Mặc dù di chúc của ông X không ghi rõ diện tích đất, diện tích nhà, loại nhà, nhưng mọi người ai cũng hiểu về tính đặc định của ngôi nhà do di chúc nói rõ về vị trí nhà mang số 84 phố Lý Thường Kiệt. Năm 2004, ông X lập di chúc khác khẳng định lại ý chí đã cho anh Nguyễn Văn A ngôi nhà số 84 phố Lý Thường Kiệt và ông bổ sung thêm các đặc điểm của ngôi nhà số 84 Lý Thường Kiệt như: Nhà 2 tầng diện tích sử dụng 200 m2 trên diện tích đất 400 m2, tại tờ bản đồ số 30 được lập năm 2004 của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội. Như vậy, di chúc năm 2004 của ông Nguyễn Văn X là nhằm mục đích bổ sung cho di chúc năm 2003.

Trong thực tế có những trường hợp người lập di chúc lại lập thêm một di chúc mới mà nội dung định đoạt một tài sản khác so với di chúc đã lập. Sự kiện này có được coi là bổ sung di chúc hay không, trong khoa học pháp lý còn có hai loại quan điểm khác nhau:

  Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, di chúc sau không liên quan đến nội dung định đoạt của di chúc trước đó, cho nên đây là di chúc mới, không phải là bổ sung di chúc.

  Quan điểm thứ hai cho rằng, về bản chất di chúc sau chính là bổ sung cho di chúc trước về việc định đoạt tiếp phần tài sản của người lập di chúc, mà không phải là di chúc mới, bởi vì di chúc trước người lập di chúc đã không định đoạt hết tài sản.

Trước hết, việc xác định di chúc sau là di chúc mới, độc lập hay chỉ là bổ sung cho di chúc trước có ý nghĩa quan trọng cả trong khoa học pháp lý và thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc. Nếu như cho rằng, di chúc sau chỉ là bổ sung cho di chúc trước thì đương nhiên, hiệu lực của di chúc sau sẽ phụ thuộc vào giá trị pháp lý của di chúc trước. Còn nếu xác định di chúc trước và di chúc sau hoàn toàn độc lập với nhau thì giá trị pháp lý của di chúc trước không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của di chúc sau.

Trong hai loại ý kiến trên thì quan điểm thứ nhất có tính thuyết phục hơn, bởi vì pháp luật dân sự không ngăn cấm một người lập nhiều di chúc khác nhau để định đoạt nhiều tài sản khác nhau thuộc sở hữu của người lập di chúc. Mặt khác, mặc dù có nhiều di chúc, nhưng những di chúc này độc lập với nhau trong việc định đoạt tài sản. Mỗi di chúc định đoạt một hoặc một vài tài sản khác nhau. Cho nên, đây là trường hợp một người lập nhiều di chúc, mà không phải bổ sung di chúc.

Trường hợp xác định là bổ sung di chúc thì phần bổ sung di chúc chỉ được xem xét về giá trị pháp lý khi di chúc chính (được người lập di chúc lập trước đó) có hiệu lực pháp luật. Nếu di chúc chính không có giá trị thì phần bổ sung di chúc cũng không có giá trị. Ví dụ như trường hợp đã nêu trên, nếu ngôi nhà số 84 Lý Thường Kiệt không phải thuộc quyền sở hữu của ông X thì đương nhiên phần bổ sung di chúc vào năm 2004 của ông X không có giá trị vì di chúc năm 2003 của ông X đã không phát sinh hiệu lực do ông X định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác.

Hủy bỏ di chúc là hành vi của người lập di chúc thể hiện ý chí tự nguyện của mình bãi bỏ di chúc đã lập. Theo quy định tại khoản 3 Điều 665 Bộ luật dân sự năm 1995 thì chỉ khi người lập di chúc thay thế di chúc bằng một di chúc mới, thì di chúc trước bị hủy bỏ. Chúng tôi cho rằng, việc quy định trên là chưa dự đoán hết các tình huống xảy ra trên thực tế, ví dụ: Trường hợp người lập di chúc thực hiện hành vi xé, đốt, tiêu hủy di chúc có được coi là họ đã hủy bỏ di chúc hay không? Hoặc người lập di chúc lập văn bản, có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc tuyên bố hủy bỏ di chúc đã viết thì có được coi là hợp pháp hay không?

Từ thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế theo di chúc, chúng tôi cho rằng, những trường hợp nêu trên vẫn phải được xem xét một cách nghiêm túc để đảm bảo đúng pháp luật, nhưng cũng phải cân nhắc để xác định đúng ý chí của người lập di chúc. Đối với trường hợp người lập di chúc xé, đốt, tiêu hủy di chúc: Đây không phải là trường hợp hiếm có trên thực tế. Tuy nhiên, thông thường những di chúc đã bị xé, đốt, tiêu hủy rồi thì coi như người để lại di sản không lập di chúc vì các đương sự không ai có thể xuất trình được di chúc để yêu cầu chia thừa kế theo di chúc. Tuy vậy, việc xé, đốt, tiêu hủy di chúc của người lập di chúc vẫn chưa thể đảm bảo tuyệt đối rằng mầm mống của việc tranh chấp thừa kế theo di chúc đó không còn tiềm ẩn; bởi vì, khi người lập di chúc chết mà không để lại di chúc nào khác, nếu người được thừa kế theo di chúc có bản phô tô di chúc (di chúc đảm bảo tính hợp pháp được mọi người thừa nhận, các đương sự khác chỉ khai là đã bị người lập di chúc xé, đốt, tiêu hủy) yêu cầu chia thừa kế theo di chúc. Lý do không có bản di chúc gốc, người đó có thể khai là do bị thất lạc, do nhà bị hỏa hoạn… nên không còn; các đương sự khác đều thừa nhận có di chúc này, nhưng cho rằng người lập di chúc đã xé, đốt, tiêu hủy di chúc, nhưng những chứng cứ thể hiện cho việc tiêu hủy thường là không có vì nếu có việc xé, đốt, tiêu hủy di chúc thì không ai lại lập thành văn bản để xác nhận có việc tiêu hủy.

Trong trường hợp người lập di chúc tại công chứng nhà nước và yêu cầu công chứng nhà nước giữ bản di chúc của mình, thì khi nhận giữ, công chứng viên phải lập hai bản có nội dung như nhau, một bản giao cho người lập di chúc và một bản lưu tại Phòng Công chứng nhà nước. Vì vậy, việc xé, đốt, tiêu hủy di chúc của người lập di chúc là chỉ với di chúc mà họ đang giữ, còn di chúc đang lưu giữ ở công chứng nhà nước vẫn còn nguyên vẹn. Sau thời điểm mở thừa kế, công chứng viên công bố di chúc và gửi bản sao di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Khi có tranh chấp xảy ra, người thừa kế yêu cầu chia thừa kế theo di chúc được lưu giữ ở công chứng nhà nước thì Tòa án vẫn phải xem xét yêu cầu của họ, nếu những người khác không có chứng cứ chứng minh di chúc đã bị người lập di chúc tự nguyện hủy bỏ.

Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam chưa quy định về hình thức hủy bỏ di chúc mà chỉ đưa ra một trường hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 665 mà thực chất quy định này là thay thế di chúc. Vì vậy, để pháp luật được thực hiện thống nhất, góp phần hạn chế những tranh chấp phát sinh từ việc không quy định này, chúng tôi đề nghị cần quy định rõ về hình thức thể hiện việc hủy bỏ di chúc.

Pháp luật Nhật Bản không quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc như pháp luật dân sự Việt Nam, nhưng tại mục V Bộ luật dân sự Nhật bản quy định về “Rút di chúc”. Về bản chất, việc rút di chúc cũng chính là sửa đổi, bổ xung, thay thế, hủy bỏ di chúc, chỉ khác nhau về cách gọi.

Điều 1022 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: “Bất cứ lúc nào người lập di chúc cũng có thể rút lui toàn bộ hoặc một phần di chúc của mình tuân theo một trong những hình thức di chúc”. Điều 1023 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: “Nếu di chúc trước không phù hợp với di chúc sau, thì phần không phù hợp của di chúc trước coi như được rút lui…”. Điều 1024 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: “Nếu người lập di chúc cố tình hủy bỏ di chúc, thì phần di chúc đã hủy bỏ được coi như đã rút lui. Quy định này được áp dụng kể cả khi người lập di chúc cố ý phá hủy di sản theo di chúc” [8].

Theo Bộ luật dân sự Pháp thì thay thế, hủy bỏ di chúc được quy định tại mục VIII chương V thiên II. Điều 1035 quy định: “Di chúc chỉ có thể bị hủy toàn bộ hoặc một phần bởi một di chúc sau hoặc một chứng thư tuyên bố thay đổi ý chí do công chứng viên lập ra”. Điều 1036 quy định: “Những di chúc sau nếu không viết rõ ràng là hủy di chúc trước thì chỉ hủy những điều trong di chúc trước không thích hợp hoặc trái với những quy định trong di chúc sau” [5]. Như trên đã phân tích thì trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới, thì di chúc trước bị hủy bỏ. Di chúc mới có thể khẳng định trong nội dung về việc di chúc cũ không còn hiệu lực, nhưng nếu di chúc mới không nói tới việc mất hiệu lực của di chúc cũ thì di chúc cũ cũng đương nhiên mất hiệu lực. Di chúc là ý chí của người lập di chúc nhằm định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác. ý chí của người lập di chúc có thể bị thay đổi phụ thuộc vào các thời điểm, do nhiều nguyên nhân khác nhau: Do tình cảm với từng người con trong những giai đoạn khác nhau có sự khác nhau, do sự chăm sóc, quan tâm của các con với người lập di chúc trong các giai đoạn khác nhau có khác nhau, do thương người con có hoàn cảnh khó khăn nhất… Vì vậy, ở các thời điểm khác nhau thì người lập di chúc có ý chí khác nhau trong việc định đoạt tài sản. Nếu ý chí của người lập di chúc được thể hiện ra bằng di chúc thì di chúc trước đó bị mất hiệu lực, nếu như cả hai di chúc đều định đoạt một loại tài sản và đây chính là việc thay thế di chúc.

Khoản 5 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: “Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật” [6]. Pháp luật không quy định một người có quyền để lại tối đa bao nhiêu di chúc đối với một tài sản. Do vậy, để định đoạt tài sản, một người có thể có nhiều di chúc. Di chúc có hiệu lực pháp luật là bản di chúc thể hiện ý chí sau cùng của người lập di chúc.

2.2.7. Quyền chỉ định người giữ di chúc

Pháp luật quy định công dân có quyền lập di chúc, đồng thời pháp luật cũng cho phép người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc. Người giữ di chúc có thể là một cá nhân, một công dân cụ thể, nhưng cũng có thể là công chứng nhà nước. Nếu di chúc được gửi giữ tại công chứng nhà nước thì việc bảo quản, giữ gìn, công bố di chúc phải theo đúng quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về công chứng. Khi nhận giữ di chúc, công chứng viên phải lập hai bản có nội dung như nhau, một bản giao cho người lập di chúc và một bản lưu tại Phòng Công chứng nhà nước. Trong trường hợp bản di chúc được lưu giữ tại công chứng nhà nước, thì công chứng viên là người công bố di chúc. Việc công bố di chúc phải có biên bản. Sau thời điểm mở thừa kế, công chứng viên phải gửi bản sao di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Bản sao di chúc này phải có chứng nhận của công chứng viên. Nếu người giữ di chúc là cá nhân thì cá nhân đó phải có nghĩa vụ giữ bí mật nội dung di chúc. Người giữ di chúc không được tiết lộ cho những người thừa kế hoặc bất cứ người nào về nội dung của di chúc. Người giữ di chúc phải bảo quản, giữ gìn cẩn thận bản di chúc, tránh việc di chúc bị hư hại, thất lạc, bị mất. Trong trường hợp người lập di chúc còn sống, nếu do những nguyên nhân khác nhau mà di chúc bị thất lạc, hư hại thì cá nhân giữ bản di chúc phải thông báo ngay cho người lập di chúc biết. Khi người lập di chúc chết, cá nhân giữ bản di chúc phải giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai người làm chứng.

Hiện nay pháp luật dân sự nước ta chưa có quy định nào về điều kiện của những người được giữ di chúc. Chúng tôi cho rằng việc quy định các điều kiện đối với người giữ di chúc là cần thiết. Mặt khác, các quyền lợi của người nhận giữ di chúc cũng cần phải được quy định.

2.2.8. Chỉ định người quản lý di sản

Quản lý di sản là hành vi của một hoặc nhiều người với mục đích nhằm giữ gìn giá trị sử dụng của di sản, bảo vệ sự tồn tại của di sản, tránh việc di sản bị mất, hư hỏng. Trên nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản, chỉ định người quản lý di sản là một loại quyền của người lập di chúc được pháp luật ghi nhận. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người lập di chúc có quyền chỉ định bất cứ người nào quản lý di sản mà không phụ thuộc vào việc người quản lý di sản có phải là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc hay không. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản, thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trong trường hợp di sản không có người quản lý và chưa xác định được người thừa kế thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Người quản lý di sản có quyền và nghĩa vụ nhất định được Bộ luật dân sự năm 1995 quy định tại Điều 642, Điều 643. Theo các quy định này thì người quản lý di sản được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế. Đồng thời, người quản lý di sản có nghĩa vụ lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu; bảo quản di sản, không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản; thông báo về di sản cho những người thừa kế; bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại…

2.2.9. Chỉ định người phân chia di sản

Người phân chia di sản cũng giống như người giữ di chúc, người quản lý di sản đều do người lập di chúc chỉ định. Người phân chia di sản là người nào đó bất kỳ, không bó hẹp trong phạm vi những người được hưởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người phân chia di sản có nghĩa vụ phải phân chia di sản theo đúng ý chí của người lập di chúc. Nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế, thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật, thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác, thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản, thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản. Trong trường hợp di chúc không định đoạt toàn bộ di sản thì việc phân chia phần di sản còn lại phải được sự đồng ý của toàn thể những người thừa kế theo pháp luật. Người phân chia di sản cũng có thể do những người thừa kế cử ra, trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không chỉ định người phân chia di sản. Người phân chia di sản được hưởng thù lao theo di chúc hoặc theo sự thỏa thuận với các thừa kế. Theo pháp luật dân sự Nhật Bản và pháp luật dân sự Pháp thì người lập di chúc có quyền chỉ định một hoặc nhiều người thực hiện di chúc, trong đó có phân chia di sản (Điều 1006, 1007 Bộ luật dân sự Nhật Bản, Điều 1025, 1026 Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp). Pháp luật dân sự của Pháp còn quy định: “Người chưa thành niên không được là người thực hiện di chúc dù người giám hộ hay người quản tài của họ cho phép” (Điều 1030) [5].

2.2.10. Dành một phần di sản để di tặng

Điều 674 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 671 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định về di tặng như sau

1- Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.

2- Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người di tặng, thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này [6], [7]. Trước tiên cần phải khẳng định rằng: Di tặng không phải là hợp đồng tặng cho, bởi vì hợp đồng tặng cho là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận. Như vậy, chủ thể tặng cho và chủ thể được tặng cho đều còn sống và cả hai bên đều thể hiện ý chí tặng cho tài sản và nhận tặng cho tài sản.

Trong quan hệ di tặng, thì việc di tặng là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, không thể hiện ý chí của người được di tặng. Nếu như trong hợp đồng tặng cho thì hợp đồng được coi là hoàn thành khi người được tặng cho nhận được tài sản (đối với tài sản không phải đăng ký) hoặc kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu (đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu), thì trong di tặng quyền của người được di tặng chỉ phát sinh tại thời điểm mở thừa kế (khi người di tặng chết).Người được di tặng có quyền nhận hoặc không nhận quyền hưởng di tặng. Trong thừa kế theo di chúc, người thừa kế theo di chúc chỉ được hưởng di sản sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người chết để lại từ di sản. Người được di tặng không phải dùng tài sản được di tặng để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết nếu di sản khác của người để lại di tặng vẫn còn đủ để thanh toán.

Nếu người được di tặng từ chối nhận di tặng, thì phần tài sản di tặng được chia thừa kế theo pháp luật.Quyền của người lập di chúc để lại di tặng chỉ bị hạn chế trong trường hợp có những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, trong trường hợp người lập di chúc định đoạt toàn bộ di sản để di tặng. Đây là điểm tương đồng với pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp. Theo pháp luật Cộng hòa Pháp thì người lập di chúc có quyền di tặng toàn bộ tài sản của mình cho người được di tặng. Điều 1003 Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Di tặng toàn bộ tài sản là quy định của di chúc theo đó người lập di chúc cho một hoặc nhiều người toàn bộ tài sản người ấy để lại sau khi chết” [5].

2.2.11. Dành một phần tài sản dùng vào việc thờ cúng

Điều 673 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau:

1- Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng. Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

2 – Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng [6], [7]. Người lập di chúc với tư cách là chủ sở hữu tài sản có quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình phù hợp với quy định của pháp luật dân sự. Pháp luật cho phép người lập di chúc có quyền để lại hay không để lại một phần tài sản để dùng vào việc thờ cúng. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng. Nếu di chúc dành một phần di sản để thờ cúng, nhưng lại không chỉ định người quản lý để thờ cúng thì những người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc cử ra một người để quản lý di sản thờ cúng. Nếu người được chỉ định quản lý di sản thờ cúng theo di chúc không thực hiện đúng di chúc, người quản lý di sản thờ cúng do những người thừa kế theo pháp luật cử ra không thực hiện thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trường hợp nghĩa vụ về tài sản của người chết lớn hơn di sản người đó để lại, mà người đó lập di chúc để lại một phần di sản dành vào việc thờ cúng, thì di chúc này không phát sinh hiệu lực vì toàn bộ di sản phải được dùng vào việc thực hiện nghĩa vụ của người lập di chúc.

2.3. Về nội dung của di chúc

2.3.1. Ngày, tháng, năm lập di chúc

Đây là một vấn đề mà hầu hết các loại văn bản đều yêu cầu thực hiện. Việc ghi ngày, tháng, năm lập di chúc là việc làm đơn giản, nhưng nó lại rất quan trọng. Trong những trường hợp nhất định, việc ghi ngày, tháng, năm lập di chúc quyết định giá trị pháp lý của di chúc. Ví dụ, trường hợp một người lập nhiều bản di chúc định đoạt một loại tài sản, thì bản di chúc sau cùng của người đó có hiệu lực pháp luật theo quy định tại khoản 5 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 5 Điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005).

Việc ghi ngày, tháng, năm lập di chúc là một quy định bắt buộc đối với di chúc bằng văn bản (điểm a khoản 1 Điều 656 Bộ luật dân sự năm 1995 và điểm a khoản 1 Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2005). Việc quy định như vậy thể hiện tầm quan trọng của việc ghi ngày, tháng, năm lập di chúc vì nó thể hiện thời điểm người để lại di sản lập di chúc, là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét hiệu lực pháp luật của di chúc, đồng thời nó cũng là căn cứ cho việc giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra. Ví dụ trong trường hợp một người mắc bệnh tâm thần đến mức không điều chỉnh được hành vi của mình. Trước khi vào điều trị tại bệnh viện tâm thần, người đó đã viết một bản di chúc định đoạt tài sản, nhưng lại không ghi ngày, tháng, năm lập di chúc. Sau khi người đó chết, người thừa kế theo di chúc của người đó yêu cầu được chia thừa kế theo di chúc. Những người thừa kế khác thì không đồng ý chia di sản theo di chúc vì họ cho rằng di chúc được lập khi người để lại di sản đã mắc bệnh tâm thần và đang điều trị tại bệnh viện.

Do di chúc không ghi ngày, tháng, năm lập di chúc nên việc xác định thời điểm người để lại di sản lập di chúc người đó đã mắc bệnh tâm thần đến mức phải vào điều trị tại bệnh viện tâm thần hay không, người đó có điều chỉnh được hành vi dân sự hay không là một vấn đề khó khăn cho cơ quan xét xử. Trong trường hợp này, Tòa án yêu cầu người đề nghị chia thừa kế theo di chúc phải chứng minh thời điểm lập di chúc. Nếu họ không chứng minh được thời điểm lập di chúc, người để lại di sản hoàn toàn minh mẫn thì di chúc đó không có hiệu lực pháp luật. Tòa án bác yêu cầu chia thừa kế theo di chúc và chia thừa kế theo pháp luật, nếu các đương sự có yêu cầu.

Như vậy, trong trường hợp nói trên, các đương sự đều thừa nhận về việc người để lại di sản lập di chúc… nhưng chỉ vì di chúc không ghi ngày, tháng, năm lập di chúc nên di chúc không có giá trị pháp lý. Việc ghi ngày, tháng, năm lập di chúc là điều kiện bắt buộc đối với di chúc theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam. ở Cộng hòa Pháp và Nhật Bản, việc ghi ngày, tháng, năm lập di chúc cũng được quy định tương tự. Theo quy định Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa Pháp, vấn đề này được quy định tại Điều 970; còn ở Nhật Bản, việc ghi ngày, tháng, năm lập di chúc được quy định tại Điều 968 Bộ luật dân sự Nhật Bản [5], [8].

2.3.2. Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc

Trong bất cứ giao dịch dân sự nào, việc ghi rõ họ, tên, nơi cư trú của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự là việc làm không thể thiếu, bởi vì: Có ghi rõ đặc điểm về tên, họ, nơi cư trú thì mới xác định được chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Mỗi cá nhân sống trong cộng đồng xã hội đều có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó. Mọi người khi sinh ra đều có quyền được khai sinh không phân biệt sinh trong giá thú hoặc ngoài giá thú. Họ của trẻ sơ sinh là họ của người cha hoặc họ của người mẹ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha, mẹ. Trong trường hợp không xác định được người cha, thì họ của trẻ sơ sinh là họ của người mẹ. Như vậy, khi con người sinh ra thì trong giấy khai sinh của người đó đã ghi rõ họ, tên. Họ của một người có thể là họ của người cha hoặc họ của người mẹ. Tên của một người do cha, mẹ đặt cho, bao gồm tên chính và tên đệm. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống và có hộ khẩu thường trú.

Trong trường hợp cá nhân không có hộ khẩu thường trú và không có nơi thường xuyên sinh sống, thì nơi cư trú của người đó là nơi tạm trú và có đăng ký tạm trú. Khi không xác định được nơi cư trú của cá nhân, thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống, làm việc hoặc nơi có tài sản hoặc nơi có phần lớn tài sản, nếu tài sản của người đó có ở nhiều nơi. Người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ, nếu được cha, mẹ đồng ý. Người được giám hộ từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của người giám hộ, nếu được người giám hộ đồng ý. Để xác định về mặt chủ thể trong việc lập di chúc, tại điểm b, khoản 1 Điều 656 Bộ luật dân sự năm 1995 (điểm b, khoản 1 Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định nội dung của di chúc phải ghi rõ họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc. Việc ghi rõ như vậy sẽ là tiền đề để xác định người lập di chúc có đúng là người để lại di sản hay không. Chỉ khi nào người lập di chúc cũng chính là người để lại di sản thì di chúc mới phát sinh hiệu lực.

Thực tế cho thấy, có một số trường hợp trùng họ, tên với nhau. Nếu những người này ở thành phố, thị xã thì có thể dễ dàng phân biệt được bởi việc xác định nơi cư trú bằng số nhà, số ngách, tổ, phường… Tuy nhiên, do ở những vùng nông thôn thì trong một xóm, một đội sản xuất, một cụm dân cư có diện tích tương đối rộng nên trường hợp có những người cùng một tên, cùng một họ thì việc phân biệt người này với người kia bằng họ, tên, nơi cư trú vẫn chưa đủ. Chúng tôi cho rằng, nên chăng cần quy định thêm về việc người lập di chúc cần phải ghi rõ năm sinh, số chứng minh nhân dân, nơi cấp, ngày cấp chứng minh nhân dân… thì việc xác định về chủ thể lập di chúc sẽ rõ ràng hơn, chính xác hơn, tránh những tranh chấp sau này có thể xảy ra về chủ thể lập di chúc.

2.3.3. Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản

Việc quy định di chúc phải ghi rõ họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản có ý nghĩa quan trọng, qua đó biết được địa chỉ của người được hưởng di sản theo di chúc. Vì vậy, chỉ khi có chính xác họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản thì mới chuyển được di sản đến đúng địa chỉ theo ý nguyện của người lập di chúc. Bàn về vấn đề này, chúng tôi cho rằng, cũng tương tự như phân tích ở phần trên về họ, tên, nơi cư trú của người lập di chúc, việc quy định phải ghi cụ thể hơn về địa chỉ của người, cơ quan, tổ chức được nhận di sản là điều cần thiết. Đối với cá nhân nhận di sản, cần phải quy định ghi rõ họ, tên, nơi cư trú, số chứng minh nhân dân… Đối với cơ quan, tổ chức, cần yêu cầu người lập di chúc phải ghi rõ những thông tin về cơ quan, tổ chức đó như: Địa chỉ, trực thuộc cơ quan, tổ chức nào…

2.3.4. Di sản để lại và nơi có di sản

Di sản để lại và nơi có di sản là một nội dung mà di chúc phải ghi rõ, được pháp luật dân sự quy định tại điểm d khoản 1 Điều 656 Bộ luật dân sự năm 1995 (điểm d khoản 1 Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2005). Di sản thừa kế trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau có những quy định khác nhau. ở Việt Nam trước những năm 1945, trong nhân dân có tục lệ “phụ trái tử hoàn” quy trách nhiệm cho những người thừa kế phải trả toàn bộ các khoản nợ của người chết cho các chủ nợ. Đối với tất cả những khoản nợ của người cha, các con đều phải gánh chịu, phải dùng tài sản của mình để trả nợ cho người cha đã chết. Vì vậy, nếu người cha chết đi, dù để lại số nợ bao nhiêu đi nữa, thì các con cũng đều phải gánh chịu. Như vậy, di sản thừa kế mà người chết để lại trong thời kỳ này bao gồm toàn bộ tài sản và nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại.

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, lệ “phụ trái tử hoàn” đã từng tồn tại dưới chế độ thực dân, phong kiến đã bị xóa bỏ cùng với việc ban hành Sắc lệnh số 97-SL ngày 22-5-1950. Theo quy định của Sắc lệnh số 97-SL, trước khi phân chia di sản của người cha hay người mẹ đã chết thì phải thanh toán tài sản chung vợ chồng. Việc thanh toán đó nhằm mục đích xác định tài sản của người vợ góa hoặc chồng góa trong khối tài sản chung vợ chồng, phần còn lại là di sản thừa kế được chia cho người thừa kế [38]. Theo thông tư số 594, di sản thừa kế được xác định: “Di sản thừa kế bao gồm không những quyền sở hữu cá nhân về những tài sản mà người chết đó để lại mà còn gồm cả những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản phát sinh do quan hệ hợp đồng hoặc do việc gây thiệt hại mà người chết để lại”. Như vậy, theo quy định này thì di sản thừa kế bao gồm không những tài sản, quyền tài sản mà còn bao gồm nghĩa vụ tài sản của một người đã chết được chuyển dịch hợp pháp cho người thừa kế hợp pháp của người đó; người thừa kế là người kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại [41].

Theo Thông tư 81 thì quan niệm về di sản thừa kế giống như hướng dẫn của Thông tư 594. Tuy nhiên, Thông tư số 81 xác định di sản thừa kế của cá nhân là tài sản, quyền tài sản được liệt kê cụ thể hơn, bao gồm: Những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, tư liệu sinh hoạt và những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ. Theo hướng dẫn của Thông tư 81 thì di sản thừa kế được hiểu là toàn bộ tài sản, quyền tài sản, nghĩa vụ tài sản của một người để lại sau khi chết được chuyển dịch cho những người thừa kế của người đó [44].

Khi Pháp lệnh Thừa kế ngày 30-8-1990 được ban hành thì việc xác định di sản thừa kế đã thay đổi. Điều 4 Pháp lệnh Thừa kế quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác”. Tài sản của người chết có tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất và các thu nhập hợp pháp. Trong trường hợp vợ hoặc chồng chết thì một nửa tài sản chung của vợ chồng thuộc về di sản của người chết [35]. Bộ luật dân sự năm 1995 quy định tương đối rõ ràng về di sản thừa kế tại Điều 637

1- Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.

2- Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này [6]. Theo quy định này thì di sản thừa kế bao gồm tài sản và quyền tài sản của người chết để lại, mà không nói rõ có bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết hay không. Nội dung của khoản 1 Điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995 về cơ bản quy định như Điều 4 Pháp lệnh Thừa kế, nhưng tại khoản 2 Điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995 có quy định mới về di sản thừa kế so với hệ thống các quy định trước đây, đó là quyền sử dụng đất là di sản thừa kế.

Theo Bộ luật dân sự năm 2005 thì khái niệm di sản được quy định ở Điều 634: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Như vậy, quy định này tưởng như hẹp hơn so với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, nhưng thực chất không có gì thay đổi, bởi vì tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ có giá trị và các quyền tài sản. Quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản, nên nó là tài sản. Vì vậy, việc Bộ luật dân sự năm 2005 đưa ra khái niệm di sản như vậy là ngắn gọn và đủ.

Như trên đã phân tích thì di sản thừa kế bao gồm cả tài sản riêng của người chết. Tài sản riêng của vợ, chồng được xác định bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được cho riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ, chồng khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người, đồ dùng, tư trang cá nhân.

Điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định tương đối rõ ràng về di sản. Tuy nhiên, hiểu về quy định của điều luật này, hiện trong khoa học pháp lý vẫn còn có hai quan điểm khác nhau về di sản:

  Quan điểm thứ nhất cho rằng, di sản thừa kế bao gồm tổng hợp tất cả các loại tài sản, các quyền tài sản và các nghĩa vụ tài sản của một người để lại sau khi chết được chuyển dịch cho những người thừa kế. Người thừa kế là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tổng hợp của người chết để lại. Những người theo trường phái này dựa trên căn cứ: Khi một người còn sống thì họ có quyền sở hữu đối với tài sản, quyền tài sản và họ phải có trách nhiệm đối với nghĩa vụ với người khác. Cho nên, khi họ chết đi thì toàn bộ tài sản, quyền tài sản và các nghĩa vụ tài sản để lại cho những người thừa kế là việc đương nhiên.

 Quan điểm thứ hai cho rằng, di sản thừa kế chỉ bao gồm tài sản, quyền tài sản của người chết để lại, được chuyển dịch cho người thừa kế hợp pháp của người đó. Những người theo quan điểm này không thừa nhận di sản thừa kế bao gồm nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai vì nếu theo quan điểm thứ nhất thì việc chia di sản thừa kế chỉ được thực hiện sau khi đã thanh toán toàn bộ nghĩa vụ tài sản của người chết để lại và trong trường hợp nếu tài sản, quyền tài sản của người chết không đủ để thanh toán các khoản nghĩa vụ thì những người thừa kế phải bằng tài sản của mình thanh toán các nghĩa vụ mà trước đó họ không hề biết. Một người khi còn sống thì họ phải chịu trách nhiệm với các giao dịch dân sự mà họ thực hiện. Nếu họ không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ, thì những người thân thích của họ không có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ đó. Do vậy, khi họ chết thì việc buộc những người thừa kế của họ phải thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của họ là điều vô lý. Hơn nữa, người thừa kế không phải là người được chuyển giao nghĩa vụ mà là người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại trong phạm vi di sản.

Như vậy, di sản thừa kế chỉ bao gồm tài sản, các quyền tài sản (bao gồm cả quyền sử dụng đất) của một người sau khi chết được chuyển dịch cho người thừa kế hợp pháp của người đó theo di chúc hoặc theo pháp luật, sau khi đã thanh toán toàn bộ nghĩa vụ tài sản của người chết trong phạm vi di sản. Theo Bộ luật dân sự năm 2005 thì vấn đề này được quy định rõ ràng hơn, quy định rõ những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản. Đây là một tiến bộ lớn, tránh việc hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau.

Cùng với sự phát triển của đất nước, di sản thừa kế hiện nay rất đa dạng về số lượng, chủng loại… vì theo quy định của pháp luật về sở hữu của cá nhân ngày càng phong phú. Từ những quy định của pháp luật, có thể thống kê những tài sản thuộc quyền sở hữu của công dân bao gồm: Thu nhập hợp pháp, nhà ở, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, hàng tiêu dùng, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ bằng tiền mặt, các trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu, sổ tiết kiệm, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền nhận tiền bảo hiểm, quyền đối với phần góp vốn trong doanh nghiệp…

Như vậy, với di sản ngày càng phong phú như trên, Nhà nước tạo mọi điều kiện cho công dân làm giàu chính đáng và đảm bảo cho họ quyền chuyển dịch hợp pháp về tài sản khi họ chết. Công dân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản, quyền tài sản của mình cho những người thừa kế. Do vậy, nội dung của di chúc không thể thiếu được việc chỉ rõ di sản để lại và nơi có di sản. Di sản để lại mà di chúc định đoạt phải ghi rõ đó là tài sản gì, đặc điểm của tài sản đó, sự phân biệt của tài sản đó đối với tài sản khác. Di sản đó hiện ở đâu, do ai đang quản lý, sử dụng. Địa chỉ nơi có di sản cần chi tiết, rõ ràng, tránh sự nhầm lẫn. Ví dụ: Một người có nhiều thửa đất, thì khi người đó lập di chúc phải chỉ rõ cho người thừa kế nào, diện tích bao nhiêu, thửa đất ở vị trí nào, có số thửa bao nhiêu, tờ bản đồ có số như thế nào, được lập năm nào của đơn vị hành chính nào (xã, huyện, tỉnh), đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng ngày, tháng, năm nào, nơi cấp giấy….

2.3.5. Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ

Con người sống trong xã hội, hàng ngày phải thiết lập các giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho sinh hoạt và công việc. Do vậy, bên cạnh những khối di sản mà họ để lại thì họ còn để lại những nghĩa vụ về tài sản. Theo quy định của pháp luật, người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế thực hiện nghĩa vụ mà lẽ ra nếu họ còn sống thì họ phải thực hiện như trả nợ, bồi thường thiệt hại… Nghĩa vụ được người lập di chúc chỉ định cho những người thừa kế thực hiện là nghĩa vụ về tài sản. Trong thực tiễn, chúng tôi thấy rằng, việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ, có bốn trường hợp có thể xảy ra:

 Trường hợp thứ nhất: Nếu người lập di chúc định đoạt toàn bộ di sản cho những người thừa kế và xác định rõ tỉ lệ nghĩa vụ mà từng người thừa kế phải thực hiện. Trong trường hợp này, những người thừa kế phải thực hiện theo di chúc trong phạm vi di sản mà họ được hưởng.

  Trường hợp thứ hai: Nếu người lập di chúc đã định đoạt toàn bộ di sản, nhưng lại không chỉ định người thực hiện nghĩa vụ. Trường hợp này những người thừa kế theo di chúc phải thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại tương ứng với phần di sản được hưởng theo di chúc và trong phạm vi di sản.

  Trường hợp thứ ba: Nếu người lập di chúc chưa định đoạt hết di sản và cũng không chỉ định việc thực hiện nghĩa vụ cho những người thừa kế, thì phần di sản chưa được định đoạt sẽ được thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Nếu phần di sản còn lại đó vẫn chưa đủ để thực hiện nghĩa vụ cho người để lại di sản, thì phần nghĩa vụ còn lại do những người thừa kế theo di chúc thực hiện tương ứng với phần di sản mà họ được hưởng theo di chúc và trong phạm vi di sản.

 Trường hợp thứ tư: Nếu người lập di chúc chưa định đoạt hết di sản và trong di chúc có chỉ định người thừa kế theo di chúc thực hiện nghĩa vụ, thì người thừa kế theo di chúc phải thực hiện đúng di chúc trong phạm vi di sản mà người thừa kế theo di chúc được hưởng. Sau khi thực hiện nghĩa vụ theo di chúc, phần còn lại người thừa kế theo di chúc mới được hưởng. Nếu phần nghĩa vụ tài sản mà người lập di chúc chỉ định cho người thừa kế theo di chúc phải thực hiện lớn hơn phần tài sản mà người lập di chúc định đoạt trong di chúc thì người thừa kế theo di chúc chỉ thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người lập di chúc trong phạm vi tài sản được hưởng; phần di sản mà người lập di chúc chưa định đoạt được thanh toán nốt nghĩa vụ tài sản mà người lập di chúc để lại; phần còn lại được chia thừa kế theo pháp luật.

2.4. Về hình thức của di chúc

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì di chúc được thể hiện dưới một trong hai hình thức:

 Di chúc bằng văn bản.

 Di chúc miệng.

2.4.1 Di chúc bằng văn bản

Điều 653 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định về di chúc bằng văn bản, bao gồm bốn loại:

1- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;

2- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;

3- Di chúc bằng văn bản có công chứng;

4- Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

Mỗi loại di chúc bằng văn bản đều có những đặc điểm riêng biệt, nhưng cũng có những điểm chung:

Thứ nhất, tất cả các di chúc bằng văn bản đều không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu. Đây là một yêu cầu đặt ra đối với các di chúc bằng văn bản. Di chúc phải được viết rõ ràng, không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu đối với tất cả các chữ để tránh cách hiểu khác nhau, dẫn đến sự tranh cãi giữa những người thừa kế.

Vậy một vấn đề đặt ra là: Nếu di chúc được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu thì di chúc đó có giá trị hay không? Vì sao?

Để giải quyết vấn đề này, cho đến nay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng chưa có hướng dẫn. Trong khoa học pháp lý cũng có những quan điểm khác nhau:

  Quan điểm thứ nhất: Pháp luật đã quy định di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nên bất cứ di chúc nào viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu đều bị coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và do vậy, di chúc đó không phát sinh hiệu lực pháp luật.

  Quan điểm thứ hai: Mặc dù di chúc có viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nhưng nếu đa số những người thừa kế của người lập di chúc cùng hiểu theo một nghĩa đối với những chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu đó thì không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của di chúc.

  Quan điểm thứ ba: Toàn bộ những người thừa kế hiểu cùng một nghĩa đối với những từ viết tắt, viết bằng ký hiệu thì di chúc mới phát sinh hiệu lực. Trong trường hợp chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu chỉ liên quan đến nội dung của một phần di chúc (di chúc có nhiều phần) mà chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu không được toàn bộ những người thừa kế hiểu cùng một nghĩa thì phần di chúc đó không có hiệu lực pháp luật; các phần khác của di chúc vẫn có hiệu lực pháp luật. Trường hợp chữ viết tắt hoặc viết bằng

ký hiệu được các thừa kế hiểu khác nhau, làm ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung di chúc thì di chúc này không phát sinh hiệu lực pháp luật.

Chúng tôi cho rằng, cả ba quan điểm trên đều có những cơ sở lý luận nhất định. Tuy nhiên, để hiểu đúng vấn đề này, cần phải xem xét nó trong tổng thể các quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc.

Đối với quan điểm thứ nhất chỉ dựa vào lời văn của khoản 2 Điều 656 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 2 Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2005): “Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu” để cho rằng di chúc không có hiệu lực pháp luật nếu viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, là cũng chưa thỏa đáng, chưa xem xét đến Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005) về hiệu lực pháp luật của di chúc. Theo quy định của Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005) thì trong các trường hợp di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần không quy định trường hợp di chúc viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu.

Đối với quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ cần đa số những người thừa kế của người lập di chúc cùng hiểu theo một nghĩa đối với những chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu thì di chúc vẫn phát sinh hiệu lực. Chúng tôi cho rằng, quan điểm này cũng không đúng, bởi vì: Đối với những từ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu thì việc hiểu đúng ý chí của người lập di chúc là một việc khó khăn. Hơn nữa, di chúc lại liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của toàn thể các thừa kế. Di chúc có thể định đoạt tài sản cho tất cả những người thừa kế theo pháp luật, nhưng cũng có những di chúc chỉ định đoạt cho một trong số những người thừa kế theo pháp luật. Vì vậy, không phải tất cả những người thừa kế đều công nhận di chúc ngay cả khi di chúc được lập theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, nếu đa số những người thừa kế cố tình hiểu sai về chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu được ghi nhận trong di chúc nhằm mục đích được hưởng di sản mà được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận thì không thỏa đáng.

Mặt khác, nếu theo quan điểm này là chưa xem xét đến việc “không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu” trong di chúc theo khoản 2 Điều 656 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 2 Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2005) [6], [7]. Quan điểm thứ ba yêu cầu toàn bộ những người thừa kế phải hiểu cùng một nghĩa đối với những từ mà di chúc viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu là có căn cứ, bởi vì: Di chúc liên quan đến quyền lợi của tất cả những người thừa kế. Trong trường hợp di chúc chỉ định đoạt tài sản cho một hoặc một vài người thừa kế theo pháp luật, mà toàn thể những người thừa kế (trong đó bao gồm cả người được thừa kế theo di chúc) thỏa thuận phân chia di sản khác với ý chí được thể hiện trong di chúc thì việc thỏa thuận đó vẫn không trái với quy định của pháp luật. Vì vậy, việc toàn bộ những người thừa kế hiểu cùng một nghĩa đối với những từ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu trong di chúc đương nhiên phải được pháp luật công nhận.

Trong trường hợp di chúc có nhiều phần khác nhau mà chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu chỉ ảnh hưởng đến nội dung của một phần di chúc, mà các thừa kế có cách hiểu khác nhau đối với những từ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu thì phần có chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu không có hiệu lực pháp luật, nhưng những phần khác của di chúc vẫn phát sinh hiệu lực pháp luật. Chúng tôi cho rằng, cách hiểu thứ ba là có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, cần phải có sự hướng dẫn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thứ hai, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Đây cũng không phải là đặc điểm riêng biệt của di chúc mà đã trở thành một yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các loại văn bản có nhiều trang. Việc đánh thứ tự số trang (nếu di chúc bao gồm nhiều trang) sẽ không gây nhầm lẫn giữa các trang, tránh sự tranh cãi không đáng có giữa những người thừa kế. Bên cạnh đó, việc quy định người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào từng trang của di chúc để đề phòng người khác giả mạo hoặc thay thế từng trang của di chúc.

Vậy một vấn đề cũng cần được đặt ra là: Nếu như di chúc có nhiều trang, nhưng từng trang của di chúc không được đánh số thứ tự, không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc thì di chúc đó có phát sinh hiệu lực hay không? Đây cũng là vấn đề khó khăn trong thực tiễn áp dụng giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc của Tòa án. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, chỉ trong trường hợp được toàn thể các thừa kế thừa nhận di chúc thì di chúc mới phát sinh hiệu lực; còn nếu còn có ý kiến khác nhau thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào kết quả giám định hoặc các chứng cứ khác của vụ án để kết luận có đúng là di chúc của người để lại di sản hay không.

Trong thực tế thì đối với di chúc được lập tại công chứng nhà nước, di chúc có chứng thực thì những tranh chấp này thường không xảy ra, bởi vì di chúc đều đã được đóng dấu giáp lai.

Thứ ba, tất cả các di chúc đều phải đáp ứng các yêu cầu về chủ thể lập di chúc, nội dung của di chúc… như đã phân tích ở phần trên.

2.4.1.1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng được Bộ luật dân sự năm 1995 quy định tại Điều 658 (Bộ luật dân sự năm 2005 quy định tại Điều 655) [6], [7].

Đây là loại di chúc mà người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc. Do đó, nếu di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, chứng nhận, chứng thực là một bản đánh máy hoặc được người lập di chúc nhờ người khác viết hộ thì di chúc đó sẽ không được thừa nhận cho dù người lập di chúc có ký vào bản di chúc. Mặt khác, nếu trường hợp bản di chúc do chính người lập di chúc viết ra nhưng người lập di chúc lại không ký vào bản di chúc thì di chúc cũng không phát sinh hiệu lực. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải đảm bảo được hai điều kiện, đó là: Di chúc phải được do chính người để lại di sản viết và ký. Vậy một vấn đề đặt ra là: Tại sao các nhà làm luật lại quy định như vậy? Việc quy định đó có chặt chẽ không?

Việc quy định trên trước hết xuất phát từ tình hình thực tiễn của nước ta, đó là số người không biết chữ hiện nay chiếm tỷ lệ rất thấp, không đáng kể. Hơn nữa, số người có tài sản và có nhu cầu lập di chúc thì hầu như đều biết chữ. Mặt khác, việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng nếu không được quy định chặt chẽ thì dễ nảy sinh tranh chấp. Vì vậy, việc quy định người lập di chúc phải tự tay viết bản di chúc là cần thiết. Tuy nhiên, đối với loại di chúc này thì nhất thiết người lập di chúc phải tự tay ký vào bản di chúc. Thực tiễn cho thấy, không phải chữ ký của bất kỳ người nào trong xã hội cũng đều được đăng ký (số người đăng ký chữ ký chỉ chiếm số ít trong xã hội vì họ giữ những vị trí nhất định). Hơn nữa, chữ ký của con người có thể khác nhau theo thời gian, sức khỏe…Vì vậy, việc xác định chữ ký của người lập di chúc là một vấn đề không đơn giản. Hơn nữa, do di chúc định đoạt phân chia di sản cho những người thừa kế có sự khác nhau, người được nhiều, người được ít (hiếm có di chúc định đoạt cho tất cả các thừa kế được hưởng di sản bằng nhau), nên những người thừa kế thường khó có thể thống nhất trong việc dễ dàng công nhận chữ ký của người lập di chúc. Do vậy, trong trường hợp các đương sự có tranh chấp về chữ ký của người lập di chúc thì việc giải quyết của Tòa án gặp nhiều khó khăn vì đại đa số loại tranh chấp này phải chờ kết quả giám định chữ ký của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Chúng tôi thấy rằng tính xác thực, chính xác của việc điểm chỉ có độ tin cậy cao hơn so với chữ ký vì điểm chỉ để lại dấu vân tay, mà dấu vân tay thì khoa học hình sự đã chứng minh được tính cá biệt của nó. Mặt khác, dấu vân tay của một người cụ thể được thể hiện trên giấy chứng minh thư nhân dân của người đó được lưu giữ ở cơ quan công an. Do vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì việc xác định dấu vân tay để lại trên di chúc có đúng là của người để lại di sản hay không là việc làm đơn giản hơn, chính xác hơn so với việc giám định chữ ký. Pháp luật Nhật Bản có quy định tương đối chặt chẽ đối với di chúc bằng văn bản không có người làm chứng. Tại Điều 968 Bộ luật dân sự Nhật Bản đã quy định:

Để lập di chúc bằng một bản viết tay, thì người lập di chúc phải viết toàn bộ bằng chính bàn tay mình ngày, tháng, họ tên và đóng dấu vào đó. Bất kỳ sự bổ xung, xóa bỏ hoặc thay đổi bản viết tay bị coi là không có hiệu lực, trừ khi người lập di chúc chỉ rõ các chỗ đó, xác nhận bổ sung để cho việc thay đổi được tiến hành và đặc biệt phải ký xác nhận bổ sung và đóng dấu vào những nơi thay đổi [8].

2.4.1.2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

Pháp luật dân sự quy định trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc vì nhiều nguyên nhân khác nhau như bị mù, bị cụt tay…, thì có thể nhờ người khác viết hộ di chúc, nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng đối với di chúc đó. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Như vậy, đối với di chúc bằng văn bản có người làm chứng thì các nhà làm luật đã cho phép người lập di chúc lựa chọn: Hoặc là ký vào bản di chúc, hoặc là điểm chỉ vào di chúc, mà không bó buộc phải ký vào bản di chúc như di chúc bằng văn bản không có người làm chứng. Sự xuất hiện của người làm chứng trở thành yếu tố quan trọng, quyết định đến hiệu lực của di chúc trong trường hợp người lập di chúc không thể tự viết được bản di chúc và di chúc đó không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng thực. Những người làm chứng cho việc lập di chúc phải tiến hành đồng thời hai hành vi: Xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Pháp luật không buộc người làm chứng cho việc lập di chúc phải xác nhận đúng nội dung mà người lập di chúc “nhờ người khác viết”.

Trong thực tế đã có nhiều trường hợp người làm chứng của di chúc chỉ ký vào di chúc, mà không thể hiện hành vi xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc. Nguyên nhân của tình trạng này có thể là tính cẩu thả của người làm chứng, nhưng nguyên nhân chủ yếu do trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân ta chưa cao. Vậy hiệu lực của những di chúc này như thế nào?

Để trả lời câu hỏi này là một vấn đề khó và theo chúng tôi thì tùy từng trường hợp cụ thể mới có thể có câu trả lời, bởi vì, trong trường hợp này, Tòa án phải căn cứ vào những chứng cứ khác như lời khai của các đương sự, lời khai của người làm chứng xem có đúng là họ trực tiếp chứng kiến người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc hay không, kết quả giám định dấu vân tay, chữ ký của người lập di chúc… mới có thể có kết luận công nhận hay không công nhận hiệu lực pháp luật của di chúc. Trong thực tế giải quyết của Tòa án, đã có không ít những trường hợp mà người làm chứng không hề biết là người lập di chúc có ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc hay không, mà họ thấy người lập di chúc mang di chúc nhờ xác nhận với tư cách người làm chứng là họ xác nhận. Theo quy định của pháp luật thì những người làm chứng phải trực tiếp chứng kiến việc người lập di chúc ký vào bản di chúc, nhưng theo chúng tôi đối với trường hợp này nếu có căn cứ xác đáng chứng minh đúng là chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc thì cũng cần công nhận hiệu lực pháp luật của di chúc.

Pháp luật dân sự cũng quy định về người làm chứng cho di chúc. Theo đó, mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc, người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc và người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự. Việc quy định như vậy nhằm mục đích đảm bảo sự vô tư, khách quan của người làm chứng, đồng thời cũng hạn chế tình trạng có việc cưỡng ép, giả dối … trong việc lập di chúc.

Hiện nay, pháp luật chưa có quy định về người viết hộ di chúc phải có những điều kiện gì, những người nào được viết hộ, những người nào không được viết hộ di chúc, những người bị cấm làm chứng có quyền viết hộ di chúc hay không. Thực tế đã có trường hợp người làm chứng cho việc lập di chúc là người viết hộ di chúc. Trường hợp này đã có những quan điểm khác nhau giữa các cấp xét xử và chúng tôi xin nêu ví dụ và phân tích, đánh giá ở phần sau của đề tài.

2.4.1.3. Di chúc bằng văn bản có chứng thực hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước

Người lập di chúc có quyền yêu cầu công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi là ủy ban nhân dân cấp xã) chứng thực bản di chúc. Người lập di chúc có thể lập sẵn di chúc, sau đó mang tới công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu chứng nhận, chứng thực bản di chúc. Như vậy, trường hợp người lập di chúc lập sẵn di chúc thì không nhất thiết phải ký trước mặt người có thẩm quyền chứng nhận, chứng thực vì pháp luật không “buộc”. Tuy nhiên, người lập di chúc phải tự mang di chúc đến cơ quan công chứng, chứng thực mà không được ủy quyền cho người khác. Khi yêu cầu chứng nhận bản di chúc, đương sự phải nộp bản di chúc và xuất trình giấy chứng minh thư nhân dân, nếu trong bản di chúc có việc chuyển tài sản của họ cho người khác mà tài sản đó theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu thì phải xuất trình giấy chứng nhận quyền sở hữu về tài sản.

Công chứng viên phải kiểm tra các giấy tờ do đương sự xuất trình, xác định năng lực hành vi của người lập di chúc; công chứng viên phải đặt các câu hỏi để xác định người lập di chúc có minh mẫn, sáng suốt, có bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép hay không? Việc công chứng phải đảm bảo bí mật, trong trường hợp cần thiết có thể ghi âm lời nói của người lập di chúc. Sau khi kiểm tra nội dung bản di chúc, công chứng viên chứng nhận bản di chúc đó. Công chứng viên không chứng nhận bản di chúc thông qua người đại diện, không chứng nhận bản di chúc có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội. Bản chính di chúc, băng ghi âm phải được lưu trữ tại Phòng Công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã công chứng di chúc đó. Trong trường hợp người lập di chúc yêu cầu sửa đổi, bổ sung di chúc đã được công chứng thì việc sửa đổi, bổ sung di chúc cũng được thực hiện công chứng theo thủ tục như khi lập di chúc.

Pháp luật cũng quy định cho phép công dân lập di chúc tại công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân cấp xã. Thủ tục lập di chúc tại công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân cấp xã được quy định tại Điều 661 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2005): Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Người lập di chúc cũng có quyền yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Việc công chứng viên lập di chúc tại nơi ở của người lập di chúc phải có ít nhất hai người làm chứng. Thủ tục lập di chúc tại chỗ được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân cấp xã.

Theo quy định của Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp thì di chúc bằng công chứng thư phải do hai công chứng viên hoặc một công chứng viên và hai người làm chứng thừa nhận (Điều 971). Nếu di chúc làm trước hai công chứng viên thì người lập di chúc đọc cho họ viết, một trong hai công chứng viên tự mình viết tay hoặc giao cho người khác viết tay hoặc đánh máy chữ. Nếu chỉ có một công chứng viên, người lập di chúc đọc cho họ viết, công chứng viên viết tay hoặc giao cho người khác viết tay hoặc đánh máy chữ. Trong cả hai trường hợp, sau khi viết đều phải đọc lại cho người lập di chúc nghe. Tất cả những điều trên đều phải ghi rõ trong di chúc (Điều 972). Người lập di chúc phải ký tên trước mặt những người làm chứng và công chứng viên; nếu người lập di chúc khai rằng không biết hoặc không thể ký tên thì phải ghi rõ lời khai này trong di chúc cũng như lý do cản trở người ấy không thể ký tên. Công chứng viên và những người làm chứng ký tên vào di chúc (Điều 973, Điều 974).

Pháp luật Nhật Bản có quy định tương đối chặt chẽ về thủ tục lập di chúc tại công chứng nhà nước. Điều 969 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định:

Để lập di chúc thông qua công chứng, thì phải tuân thủ các thủ tục sau đây:

1- Phải có mặt của hai người làm chứng;

2- Người lập di chúc phải tuyên bố bằng miệng nội dung của di chúc trước công chứng viên;

3- Công chứng viên phải chép nội dung tuyên bố bằng miệng của người lập di chúc và đọc lại cho người lập di chúc và các nhân chứng nghe.

4- Người lập di chúc và từng người làm chứng phải ký và đóng dấu vào bản chép này sau khi tin chắc rằng nó được chép chính xác; song trong trường hợp người lập di chúc không thể ký được, thì công chứng viên phải làm xác nhận bổ sung về sự kiện này thay cho chữ ký.

5- Công chứng viên xác nhận bổ sung để cho văn bản được xác lập phù hợp với các thủ tục ở bốn khoản trên và ký tên đóng dấu vào đó [8].

2.4.1.4. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực

Đây là những trường hợp đặc biệt mà pháp luật dự liệu, người lập di chúc không có điều kiện để yêu cầu công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận, chứng thực. Theo quy định tại Điều 663 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 660 Bộ luật dân sự năm 2005) có những trường hợp sau đây:

1- Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực. Người lập di chúc phải là quân nhân đang tại ngũ, tức là đang ở một đơn vị nhất định trong quân đội. Người quân nhân này lập di chúc, nhưng không có điều kiện để yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận, chứng thực di chúc. Ví dụ, trường hợp người quân nhân đóng quân ở hải đảo, nơi chỉ có quân đội, không có cơ quan công chứng, chứng thực. Hoặc trường hợp người quân nhân đang làm nhiệm vụ đặc biệt, cần che giấu thân phận như đang là quân nhân của cơ quan an ninh quân đội…Trong trường hợp này, pháp luật không quy định rõ, không bắt buộc người lập di chúc phải tự viết bản di chúc. Vì vậy, người quân nhân lập di chúc theo quy định của điều luật này có thể tự viết di chúc hoặc nhờ người khác viết hộ, nhưng cũng như bất kỳ di chúc nào, người lập di chúc buộc phải ký vào di chúc.

Người có thẩm quyền xác nhận vào di chúc của những quân nhân này phải thỏa mãn hai điều kiện: phải là thủ trưởng đơn vị của chính người quân nhân đó và người thủ trưởng này phải từ cấp đại đội trở lên. Ví dụ: Đại đội trưởng, sư đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng…Vậy một số vấn đề đặt ra là:

 Nếu người quân nhân có điều kiện để yêu cầu cơ quan công chứng hoặc chính quyền cơ sở chứng nhận, chứng thực nhưng họ không yêu cầu, mà lại đề nghị thủ trưởng đơn vị của mình từ cấp đại đội trở lên xác nhận thì di chúc có phát sinh hiệu lực pháp luật hay không.

  Trường hợp thủ phó đơn vị từ cấp đại đội trở lên của người lập di chúc xác nhận hoặc thủ trưởng đơn vị dưới cấp đại đội xác nhận thì di chúc có phát sinh hiệu lực hay không. Đây là vấn đề mà thực tiễn có thể xảy ra mà nhà làm luật cần phải dự liệu, các nhà áp dụng pháp luật phải tính đến để hướng dẫn việc áp dụng pháp luật thống nhất trong cả nước, tránh những cách hiểu khác nhau. Như đã phân tích thì cả hai trường hợp nêu trên không thỏa mãn những yêu cầu đặt ra theo quy định tại khoản 1 Điều 663 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 660 Bộ luật dân sự năm 2005). Mặt khác, di chúc này cũng chưa thỏa mãn Điều 659 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 656 Bộ luật dân sự năm 2005) vì chưa đủ số người làm chứng cho việc lập di chúc. Tuy nhiên, việc đánh giá di chúc này không có hiệu lực pháp luật cũng là không đúng, mà có hai khả năng phát sinh, quyết định đến hiệu lực pháp luật của di chúc:

  Nếu như di chúc do chính người lập di chúc (quân nhân) tự tay viết và ký vào bản di chúc thì đã thỏa mãn quy định tại Điều 658 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 655 Bộ luật dân sự năm 2005) về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng. Vì vậy, việc có thêm xác nhận như hai trường hợp nêu trên sẽ là xác nhận với tư cách của nhân chứng và do vậy, nó lại càng tăng thêm giá trị pháp lý của di chúc. Trường hợp này, chúng tôi cho rằng, di chúc có hiệu lực pháp luật.

 Nếu di chúc lại do người lập di chúc nhờ người khác viết, sau đó người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ thì di chúc không có hiệu lực pháp lý vì chỉ có một người làm chứng (thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên xác nhận trong trường hợp người có điều kiện yêu cầu công chứng, chứng thực nhưng không yêu cầu, thủ phó đơn vị từ cấp đại đội trở lên và thủ trưởng đơn vị dưới cấp đại đội nếu có xác nhận thì chỉ có ý nghĩa như người làm chứng cho việc lập di chúc).

2- Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.

Đây cũng là trường hợp mà người lập di chúc không thể yêu cầu cơ quan công chứng, chứng thực xác nhận vào di chúc. Trong hoàn cảnh cụ thể này thì người có thẩm quyền xác nhận vào di chúc chính là người chỉ huy của tàu biển, máy bay. Vậy “đang đi trên tàu biển, máy bay” được hiểu như thế nào cho đúng? Đây là một vấn đề mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng chưa có hướng dẫn. Phải chăng “đang đi trên tàu biển, máy bay” là việc đi lại hoặc làm việc trên máy bay, tàu biển khi những phương tiện giao thông này đã rời sân bay, bến cảng, nhưng chưa hạ cánh, cập bến nói chung (tức là của bất cứ nước nào) hay phải là đã rời sân bay, bến cảng, nhưng chưa hạ cánh, cập bến của Việt Nam.

Đưa ra tình huống này, các nhà làm luật dự phòng người lập di chúc không có điều kiện để yêu cầu cơ quan công chứng, chứng thực xác nhận vào di chúc. Vì vậy, sân bay, bến cảng mà máy bay, tàu biển hạ cánh, cập bến quy định ở điều luật này phải là sân bay, bến cảng của Việt Nam. Trường hợp máy bay, tàu biển đã hạ cánh, cập bến tại sân bay, bến cảng của Việt Nam rồi mà di chúc vẫn chỉ được xác nhận của người chỉ huy máy bay, tàu biển thì việc xác nhận này coi như xác nhận của nhân chứng, tương tự như phân tích ở phần di chúc của quân nhân tại ngũ.

3- Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.

Người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng có thể được điều trị nội trú hoặc được điều trị ngoại trú. Vì pháp luật không quy định cụ thể, chi tiết cho nên “người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác” có thể được hiểu là cả hai trường hợp trên.

Thực tế cho thấy bệnh viện, cơ sở chữa bệnh thường có địa điểm tại nơi thuận lợi giao thông, nơi trung tâm dân cư và thường gần nơi công chứng hoặc chứng thực. Mặt khác, trường hợp những người được điều trị ngoại trú thường là những người bệnh còn nhẹ, khả năng đi lại vẫn tốt. Việc pháp luật dân sự quy định như trên là tạo điều kiện thuận lợi cho người lập di chúc.

4- Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị. Người lập di chúc theo quy định này có thể là những cán bộ thuộc cơ quan nhà nước, nhưng cũng có thể là cá nhân đi làm theo hợp đồng lao động được cử đến rừng núi, hải đảo để làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu về một vấn đề gì đó theo quy định của pháp luật. Do điều kiện công tác ở vùng sâu, vùng xa nên những người này gặp nhiều khó khăn trong việc đi đến cơ quan công chứng, chứng thực. Vì vậy, pháp luật đã cho phép di chúc của những người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo chỉ cần có xác nhận của người phụ trách đơn vị thì di chúc đó đã có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực.

5- Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó. Công dân Việt Nam đang ở nước ngoài là những công dân đã từng mang quốc tịch Việt Nam mà chưa thôi quốc tịch Việt Nam, bao gồm rất nhiều đối tượng như: Người Việt Nam đang làm việc tại nước ngoài do cơ quan cử đi, người Việt Nam sang lao động tại nước ngoài bằng các con đường khác nhau, sinh viên Việt Nam sang học tập ở nước ngoài, người vượt biên, xuất cảnh trái phép, người Việt Nam lưu vong và kể cả người Việt Nam chưa thôi quốc tịch Việt Nam, mặc dù đã nhập quốc tịch nước ngoài. Do pháp luật Việt Nam không cấm công dân Việt Nam muốn ra nhập quốc tịch nước ngoài phải thôi quốc tịch Việt Nam nên đã có một số lượng không nhỏ những người vừa là công dân Việt Nam, vừa là công dân nước ngoài (người mang hai quốc tịch). Vì vậy, khi những công dân Việt Nam đang ở nước ngoài lập di chúc thì di chúc của họ phải có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước đó mới có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực.

6. Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó. Theo quy định của pháp luật, những người đang bị tạm giam đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh là những người bị hạn chế những quyền dân sự nhất định, nhưng họ vẫn được quyền lập di chúc. Do những đối tượng này bị hạn chế quyền tự do đi lại, nên khi họ lập di chúc chỉ cần có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó thì di chúc có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực.

Với sáu loại di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực nêu trên, pháp luật đã dự liệu các trường hợp có thể xảy ra trong thực tiễn, đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho người lập di chúc dù trong những hoàn cảnh đặc biệt vẫn có thể lập di chúc và di chúc của họ được đảm bảo an toàn về mặt pháp lý. Trong những trường hợp cụ thể nêu trên, di chúc mặc dù không được công chứng, chứng thực nhưng nó có giá trị pháp lý như di chúc được công chứng, chứng thực. Vì vậy, hiệu lực của di chúc này sẽ giữ nguyên giá trị, mặc dù điều kiện hoàn cảnh thực tế sau đó đã có thay đổi, người lập di chúc hoàn toàn có khả năng lập lại di chúc và yêu cầu công chứng, chứng thực. Ví dụ: Người lập di chúc khi đang đi trên tàu biển, máy bay lập di chúc có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó thì di chúc này có hiệu lực như di chúc được công chứng, chứng thực. Do vậy, khi đã về đến sân bay, bến cảng, về gia đình với cuộc sống bình thường thì người lập di chúc nếu không muốn thay đổi lại nội dung di chúc, người đó không phải chép lại nội dung di chúc đã lập khi đang đi trên tàu biển, máy bay để mang đi công chứng, chứng thực bởi vì di chúc được lập trên máy bay, tàu biển có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực.

Tuy nhiên, để tránh những tranh chấp về việc có đúng là người lập di chúc ở vào hoàn cảnh như được quy định tại 6 khoản của Điều 663 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 660 Bộ luật dân sự năm 2005) hay không thì người lập di chúc nên mang di chúc đã lập đến xin xác nhận tại cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn. Trường hợp những người thừa kế có tranh chấp về việc có đúng là người lập di chúc ở vào những hoàn cảnh theo Điều 663 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 660 Bộ luật dân sự năm 2005) hay không thì người có nghĩa vụ chứng minh là người thừa kế theo di chúc. Theo quy định của Bộ luật dân sự Nhật Bản thì người ở địa điểm mà việc liên lạc với bên ngoài bị cắt đứt theo thủ tục hành chính do có bệnh truyền nhiễm đang diễn ra có thể lập di chúc bằng văn bản trước sự có mặt của sĩ quan cảnh sát và ít nhất một nhân chứng (Điều 977 Bộ luật dân sự Nhật Bản). Người đi trên một con tàu có thể lập di chúc bằng văn bản trước mặt của trưởng tàu hay một số các nhân viên cùng với hai người làm chứng (Điều 978 Bộ luật dân sự Nhật Bản)… Tuy nhiên, các loại di chúc này sẽ không có hiệu lực nếu người lập di chúc sống thêm 6 tháng nữa kể từ thời điểm mà người này có thể lập được di chúc dưới dạng thông thường.

Pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp cũng quy định tương tự như Bộ luật dân sự của Nhật Bản, nhưng thủ tục đối với các loại di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực phức tạp hơn. Tuy nhiên, những di chúc này bị mất hiệu lực sau sáu tháng khi việc mất liên lạc không còn nữa hoặc đã đến một nơi mà người đó có thể tự do sử dụng các hình thức di chúc thông thường (Mục II Chương V Thiên II Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp).

2.4.2. Di chúc miệng

Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về di chúc miệng tại Điều 654:

1- Trong trường hợp một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản, thì có thể lập di chúc miệng. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.

2- Sau 3 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị hủy bỏ [6].

Như vậy, chỉ trong những trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật thì công dân mới có quyền lập di chúc miệng. Trường hợp đặc biệt đó là: Bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản. Vì vậy, nếu một người ở vào hoàn cảnh bị cái chết đe dọa mà có thể lập di chúc bằng văn bản nhưng người đó không lập di chúc bằng văn bản, mà lại lập di chúc miệng, thì di chúc đó cũng không được pháp luật công nhận. Cho đến nay, mặc dù thi hành Bộ luật dân sự năm 1995 đã được gần 10 năm (từ 1-7-1996) và Bộ luật dự liệu trường hợp bị cái chết đe dọa do những nguyên nhân khác, nhưng những nguyên nhân khác ở đây cũng chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn.

Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp, nếu ý chí cuối cùng của người lập di chúc miệng được thể hiện trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Như vậy, đối với di chúc miệng thì vai trò của người làm chứng vô cùng quan trọng, quyết định đến hiệu lực của di chúc. Số lượng những người làm chứng phải ít nhất là hai người. Những người làm chứng phải ghi chép lại nội dung di chúc miệng và cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Những người làm chứng phải thỏa mãn các quy định của Điều 657 Bộ luật dân sự năm 1995.

Do là một hình thức di chúc đặc biệt, nên pháp luật quy định di chúc miệng với thủ tục tương đối chặt chẽ. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng, mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị hủy bỏ. Như vậy, vấn đề thời gian, vấn đề nhận thức của người lập di chúc miệng sau khi lập di chúc là vấn đề quan trọng, quyết định đến hiệu lực của di chúc. Khoảng thời gian ở đây mà pháp luật quy định là 3 tháng kể từ khi người lập di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng đương nhiên không có giá trị. Về mặt sinh học thì người lập di chúc phải còn sống sau khi lập di chúc 3 tháng. Về mặt nhận thức thì mặc dù sau 3 tháng và còn sống, người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt thì di chúc mới bị hủy bỏ. Tựu chung lại, theo Bộ luật dân sự năm 1995, thì di chúc miệng có hiệu lực khi đảm bảo các điều kiện sau:

  Được lập trong tình trạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản.

  Người lập di chúc miệng phải thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng.

 Ngay sau khi nghe người lập di chúc thể hiện ý chí cuối cùng, những người làm chứng phải ghi chép lại.

 Những người làm chứng phải ký tên hoặc điểm chỉ.

  Dưới 3 tháng sau khi lập di chúc miệng, người lập di chúc chết hoặc 3 tháng sau khi lập di chúc miệng, người lập di chúc còn sống nhưng không minh mẫn, sáng suốt.

Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về di chúc miệng tại Điều 651 và khoản 5 Điều 652. Những quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về di chúc miệng vẫn được giữ nguyên. Mặt khác, Bộ luật dân sự năm 2005 tiến bộ hơn trong việc quy định về việc trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là: Khi di chúc miệng đã được lập đúng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 thì có được coi như di chúc được chứng nhận, chứng thực hay không? Trao đổi về vấn đề này, trong khoa học pháp lý còn có hai quan điểm khác nhau:

 Quan điểm thứ nhất: Mặc dù là di chúc miệng, nhưng di chúc này đã được công chứng, chứng thực nên nó có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực.

 Quan điểm thứ hai: Di chúc miệng là một loại di chúc đặc biệt, được pháp luật quy định cụ thể về: Trình tự, thủ tục, hiệu lực… Việc pháp luật quy định trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được

công chứng, chứng thực không có nghĩa là di chúc miệng có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực, mà chỉ nhằm mục đích xác nhận có sự kiện pháp lý: Có người lập di chúc miệng. Mặt khác, pháp luật không có quy định về việc loại di chúc này có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực. Hơn nữa, di chúc được công chứng, chứng thực không bị mất hiệu lực bởi thời gian, nhận thức kể từ thời điểm lập di chúc, còn yếu tố thời gian, nhận thức của người lập di chúc kể từ thời điểm lập di chúc đối với di chúc miệng lại có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực của di chúc miệng. Chúng tôi thấy rằng, quan điểm thứ hai là có căn cứ về mặt khoa học pháp lý.

Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định cụ thể những người nào được mang di chúc miệng đến cơ quan công chứng, chứng thực. Phải chăng khi pháp luật không quy định, thì bất cứ người nào cũng có thể mang di chúc miệng đi công chứng, chứng thực. Chúng tôi cho rằng, để thực hiện vấn đề này, cần có sự hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền. Bộ luật dân sự Nhật Bản cũng có quy định về di chúc miệng. Điều 976 quy định:

Trong trường hợp một người đang đứng trước sự nguy hiểm của cái chết do bệnh tật hay do nguyên nhân khác muốn lập di chúc, thì có thể làm việc đó trước sự có mặt của ít nhất 3 nhân chứng bằng cách đọc bằng miệng nội dung của di chúc cho một người trong số họ. Trong trường hợp này người được đọc cho nghe phải ghi chép và từng nhân chứng phải ký và đóng dấu vào đó sau khi tin chắc văn bản được chép đúng. Một bản di chúc được lập theo quy định của phần trên không có hiệu lực nếu không có ai trong số các nhân chứng hoặc người có liên quan yêu cầu Tòa hôn nhân và gia đình xác nhận di chúc đó trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày lập di chúc. Tòa hôn nhân gia đình có thể không xác nhận di chúc đó chừng nào chưa tin chắc rằng nó phản ánh ý muốn thực sự của người lập di chúc [8]. Tuy nhiên, di chúc miệng này sẽ không có hiệu lực nếu người lập di chúc sống thêm 6 tháng nữa kể từ thời điểm mà người này có thể lập được di chúc dưới dạng thông thường (Điều 978 Bộ luật dân sự Nhật Bản). Trong giai đoạn hiện nay, do trình độ khoa học và công nghệ phát triển không ngừng, người lập di chúc có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật cơ học, điện tử để làm phương tiện lập di chúc như: Di chúc được viết bằng máy chữ cơ học, viết bằng máy vi tính, băng ghi âm thanh, đĩa âm thanh, ghi băng hình, đĩa hình… Di chúc này phải có công chứng hoặc chứng thực mới có giá trị pháp lý, tránh việc lợi dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử của người giả mạo di chúc.

3. Danh mục Tài liệu tham khảo

  1. Ph. Ăngghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  2. Bản thuyết minh về Dự thảo Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  3. Trần Hữu Biền và Tiến sĩ Đinh Văn Thanh (1995), Hỏi đáp về Pháp luật thừa kế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
  4. Bộ dân luật Sài Gòn năm 1972.
  5. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa Pháp (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  6. Bộ luật dân sự năm 1995.
  7. Bộ luật dân sự năm 2005.
  8. Bộ luật dân sự Nhật Bản (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  9. Bộ luật Gia Long.
  10. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2000).
  11. Bộ luật Hồng Đức.
  12. Chính phủ (1998), Nghị định về đăng ký hộ tịch số 83/1998/NĐ-CP, ngày 10-10-1998.
  13. Chính phủ (2000), Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình.
  14. Dân luật Bắc kỳ 1932.
  15. Dân luật Trung kỳ 1936 (Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật).
  16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996-1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
  19. Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
  20. Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh
  21. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (1999), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
  22. Giáo trình Luật La Mã (2001), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
  23. Hiến pháp năm 1946.
  24. Hiến pháp năm 1959.
  25. Hiến pháp năm 1980.
  26. Hiến pháp năm 1992.
  27. Trần Đức Linh (1974), Danh từ pháp luật lược giải, Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1974.
  28. Luật Đất đai năm 1987.
  29. Luật Đất đai năm 1993.
  30. Luật Đất đai năm 2003.
  31. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
  32. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
  33. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
  34. Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế.
  35. Pháp lệnh thừa kế năm 1990.
  36. Quốc hội (2000), Nghị quyết số 35/2000/QH10, ngày 9-6-2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình.
  37. Lê Kim Quế (1994), 90 câu hỏi – đáp pháp luật về thừa kế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  38. Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-5-1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
  39. Tòa án nhân dân tối cao (1959), Chỉ thị số 772-CT/TATC về việc đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến.
  40. Tòa án nhân dân tối cao (1968), Thông tư số 594-NCPL ngày 27-8 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế.
  41. Tòa án nhân dân tối cao (1974), Thông tư số 15-TATC, ngày 27-9-1974 hướng dẫn xử lý một vài loại tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình.
  42. Tòa án nhân dân tối cao (1978), Thông tư số 60-TATC ngày 22-2 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình.
  43. Tòa án nhân dân tối cao (1981), Thông tư số 81-TANDTC ngày 24-7 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế.
  44. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo thống kê của ngành Tòa án nhân dân năm 2000, Hà Nội.
  45. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo thống kê của ngành Tòa án nhân dân năm 2001, Hà Nội.
  46. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo thống kê của ngành Tòa án nhân dân năm 2002, Hà Nội.
  47. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo thống kê của ngành Tòa án nhân dân năm 2003, Hà Nội.
  48. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo thống kê của ngành Tòa án nhân dân năm 2004, Hà Nội.
  49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb Công anmnhân dân, Hà Nội.

 

The post Cơ sở lý luận điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của bộ luật appeared first on Luận văn 1080.



from Luận văn 1080 http://bit.ly/2BC68YU
via gqrds

No comments:

Post a Comment