Tầm quan trọng trong việc quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh là gì? Mục tiêu của công tác này? Tất cả sẽ được chúng tôi chia sẻ trong bài viết dưới đây.
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Quản lý
1.1.1. Khái niệm “quản lý”
Trong khoa học quản lý, khái niệm “quản lý” được coi là một trong những khái niệm công cụ đặc biệt quan trọng. Vì thế, các nhà khoa học quản lý đã đưa ra nhiều khái niệm về quản lý. Tùy theo cách tiếp cận, quản lý được hiểu với nhiều cách khác nhau như sau:
Theo Fayol: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức đều có, nó gồm năm yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”[9,tr.31].
Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất (William – Tay Lor) [13].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì:” Quản lý bao gồm: Quản có nghĩa là duy trì ổn định, lý là làm cho phát triển. Vậy quản lý là làm cho ổn định và phát triển.”[ 2, tr.6].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý), trong tổ chức – nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”[10,tr. 9]. Cũng theo đó các tác giả còn phân định rõ hơn về hoạt động quản lý: ” Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra [11, tr.9].
Theo Phạm Viết Vượng (2003), “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan” [28, tr.40].
Các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo (2006) cho rằng “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra” [15, tr.12].
Tóm lại: Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức, thông qua công cụ và phương pháp quản lý nhằm làm cho tổ chức đó vận hành thuận lợi và đạt được mục tiêu đề ra.
Các khái niệm trên về “quản lý” được trình bày khác nhau về ngôn từ, cách diễn đạt song chúng có những đặc điểm chủ yếu sau: Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích ( sự tác động có tổ chức, có mục đích…) của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng các chế định xã hội, bằng tổ chức nguồn nhân lực, tài lực và vật lực, phẩm chất, uy tín của cơ quan quản lý hoặc người quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục đích trong điều kiện môi trường luôn biến động; Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội; Hoạt động quản lý phải phù hợp với quy luật khách quan; Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.
1.1.2. Chức năng quản lý
Quản lý là một quá trình mà chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý- trong một tổ chức – bằng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo kiểm tra đánh giá, dựa trên những nguồn lực và những điều kiện có thể nhằm đạt được mục đích của tổ chức.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì quản lý có 4 chức năng: ” Kế hoạch hóa – Tổ chức – Chỉ đạo – Kiểm tra” [2, tr6-8]. Có thể khái quát 4 chức năng như sau:
Kế hoạch hóa là quá trình xác định mục tiêu và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu. Thực chất của kế hoạch hóa là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch với mục tiêu, biện pháp, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các nguồn lực, điều kiện để thực hiện mục tiêu.
Tổ chức là sắp xếp, sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những con người, những hoạt động thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau một cách hợp lý.
Chỉ đạo là chỉ dẫn, động viên, điều chỉnh và phối hợp các lực lượng để thực hiện kế hoạch đã đề ra.
Kiểm tra là chức năng dùng để kiểm tra trạng thái của hệ thống, kiểm tra kết quả thực hiện kế hoạch so với mục tiêu đề ra, kiểm tra còn nhằm phát hiện sai sót để kịp thời uốn nắn, sửa chữa trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Thông tin được coi là sợi dây liên kết cả 4 chức năng của quản lý.
1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục chính là một quá trình tác động có định hướng của nhà quản lý giáo dục (chủ thể) trong việc vận hành những nguyên lý, phương pháp … chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục nhằm đạt những mục tiêu giáo dục đề ra. Chủ thể quản lý là trung tâm thực hiện các tác động có mục đích của giáo dục, trung tâm ra quyết định điều hành và kiểm tra các hoạt động của hệ thống giáo dục theo mục tiêu đề ra. Đối tượng quản lý giáo dục bao gồm nguồn nhân lực của giáo dục, cơ sở vật chất kỹ thuật của giáo dục và các hoạt động có liên quan đến việc thực hiện chức năng của giáo dục, đó chính là những đối tượng chịu sự tác động của cán bộ quản lý (chủ thể) để thực hiện và biến đổi phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã đề ra.
Theo Trần Kiểm, xét về cấp độ có thể hiểu khái niệm quản lí giáo dục như sau: Ở cấp vĩ mô, “quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lí nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát,… một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội” [16, tr.10].
Ở cấp vi mô, “quản lý giáo dục thực chất là những tác động của chủ thể quản lí vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường” [16, tr.12].
Quản lý nhà trường
Theo các tác giả P.V.Zimin, M.I.Kônđakôp, N.I.Xaxerđôtôp: “Quản lý nhà trường là hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý lên tất cả các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội – kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên” [16, tr.12].
Tác giả Phạm Viết Vượng cho rằng: ” Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao giáo dục và đào tạo trong nhà trường”[ 29, tr.205].
Theo Phạm Minh Hạc thì “ Quản lí trường học là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [14, tr.73].
Như vậy, quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục trong một phạm xác định đó là đơn vị giáo dục là nhà trường. Do đó quản lý nhà trường là vận dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý giáo dục để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo. Bản chất quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy và học để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
Quản lý nhà trường là một hoạt động thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản lý, đồng thời có những nét riêng mang tính đặc thù của giáo dục. Quản lý nhà trường được quy định với bản chất lao động sư phạm của người giáo viên, bản chất của quá trình dạy học và quá trình giáo dục, trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là chủ thể sáng tạo chủ động vừa là đối tượng quản lý. Sản phẩm của các hoạt động trong nhà trường là nhân cách người học sinh được hình thành trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện, phát triển theo yêu cầu phát triển của xã hội. Vì vậy, thực chất quản lý giáo dục là tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động trong nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu đề ra. Trường học là một thành tố của hệ thống giáo dục nên quản lý trường học cũng được hiểu như một bộ phận của quản lý giáo dục.
Mục tiêu: Nhằm tổ chức và điều khiển các hoạt động của nhà trường theo đúng kế hoạch và đạt được kết quả cao nhất, đặc biệt là các hoạt động giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Nội dung: Thực hiện chương trình của trường phổ thông; Tổ chức hoạt động nội trú và nuôi dưỡng học sinh nội trú; Tổ chức hoạt động nội trú gồm: Hoạt động lao động, văn hóa, thể thao. Cụ thể: Lao động công ích, sinh hoạt văn nghệ, thể dục thể thao, các hoạt động theo chủ đề, chủ điểm, tham quan du lịch, lễ hội, tết dân tộc, giao lưu văn hóa và các hoạt động xã hội khác nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách học sinh; Nuôi dưỡng học sinh nội trú: hoạt động nuôi dưỡng bao gồm tổ chức bếp ăn tập thể đảm bảo dinh dưỡng theo đúng chế độ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, chăm sóc sức khỏe học sinh. Hoạt động nuôi dưỡng thực hiện công khai dân chủ, tôn trọng phong tục tập quán tiến bộ của các dân tộc.[24, tr.6].
1.3. Bản sắc văn hóa dân tộc
1.3.1. Văn hóa
Văn hóa là khái niệm phức tạp, cho đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về nội hàm của khái niệm “Văn hoá”.
Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp tại Venise năm 1970 do UNESCO đưa ra định nghĩa: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động”.
Trong Bách khoa toàn thư Pháp, văn hóa được định nghĩa như sau: “Văn hoá theo nghĩa rộng là tập tục tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mỹ….. những hiểu biết kỹ thuật cũng như toàn bộ việc tổ chức môi trường của con người… những công cụ, nhà ở,… và nói chung là toàn bộ công nghiệp có thể truyền lại được, điều tiết những quan hệ và những ứng xử của một nhóm xã hội với môi trường sinh thái của nó . . . “.
Định nghĩa văn hoá trong Đại bách khoa toàn thư Liên Xô: “Văn hoá là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người, biểu hiện ra trong các kiểu và các hình thái tổ chức đời sống và hành động của con người, cũng như trong các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người tạo ra. Văn hoá có thể được dùng để chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần của những xã hội, dân tộc, bộ tộc cụ thể (thí dụ: văn hoá cổ đại, văn hoá Maya, văn hoá Trung Quốc…). Theo nghĩa hẹp, văn hoá chỉ liên quan tới đời sống tinh thần của con người”.
Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa về văn hóa, trong số đó có một số định nghĩa được nhiều người quan tâm, sử dụng như:
Trong tác phẩm: Việt Nam văn hoá sự cương, năm 1938, giáo sư Đào Duy Anh đã đưa ra quan niệm về văn hoá: “Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn hoá tức là sinh hoạt”[1].
Vào năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra một định nghĩa về văn hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ các sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[18,tr.431].
Năm 1995, PGS.VS Trần Ngọc Thêm trong cuốn giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam đã định nghĩa văn hoá: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”[26].
Tác giả Phan Ngọc (1998) định nghĩa: “Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hoá theo mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hoá dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay tộc người khác” [21, tr.19- 20].
1.3.2. Bản sắc văn hóa dân tộc
Thuật ngữ “bản sắc” thường được sử dụng gắn với văn hóa thành cụm từ “Bản sắc văn hoá” và có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và tính biến đổi.
“Bản sắc văn hoá dân tộc” là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo rất riêng của dân tộc này so với dân tộc khác. Xét về bản chất, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, linh hồn, cốt cách, bản lĩnh của một dân tộc. Đây được coi là “dấu hiệu khác biệt về chất” giữa dân tộc này với dân tộc khác. Tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp ở Venise, F.Mayor – nguyên Tổng giám đốc UNESCO đã đưa ra một định nghĩa khái niệm văn hóa trên cơ sở nhấn mạnh tính đặc thù của bản sắc văn hoá dân tộc: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động”[ 27, tr.798]. Trong quan hệ quốc tế, bản sắc văn hóa dân tộc được xem như cái “thẻ căn cước”, là cốt cách của mỗi dân tộc thể hiện trên mọi phương diện.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, bản sắc văn hoá là yếu tố mang sức mạnh tinh thần dân tộc, giúp dân tộc vượt qua những thử thách của lịch sử, bởi vì theo tác giả Trần Văn Bính thì “bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển” và tạo cơ sở cho sự phân biệt, nhận diện sự khác nhau giữa tộc người này với tộc người khác, dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hoá nhìn một cách tổng thể của bất kỳ dân tộc nào, đều gắn bó với lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của chính dân tộc đó [25, tr.20].
Nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định: “Trong đồng bào các dân tộc thiểu số, bản sắc văn hóa biểu hiện đậm đà nhiều mặt. Dân tộc nào cũng có tinh thần dũng cảm trong sản xuất và chiến đấu, tính chân thật thuỷ chung, lòng thương người mến khách. Ở nhà sàn, ăn cơm nếp, uống rượu cần. Đội mũ, khăn, áo, quần nhiều màu sắc, đàn hát, nhảy múa đông người… Những đức tính và nét sinh hoạt đó thường nổi bật trong đời sống của đồng bào ở miền núi” [8, tr.26].
Nhìn nhận về giá trị bản sắc văn hoá Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam đã tổng kết tại Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo ”[31, tr.7].
Tiến trình lịch sử phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam cho thấy các giá trị bản sắc văn hóa của từng tộc người, từng dân tộc không phải ngẫu nhiên được hình thành mà đó là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh địa lý, lịch sử và chính trị. Các giá trị cốt lõi của bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc đã làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam.
Tóm lại bản sắc văn hóa dân tộc là một khái niệm không dễ xác định, bởi vì bản sắc văn hóa dân tộc có nhiều lớp khái niệm với các tầng nội hàm khác nhau. Song chúng ta có thể khẳng định rằng bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mĩ và lối sống của dân tộc tạo thành những đặc trưng tiêu biểu, tiến bộ, riêng biệt, không thể trộn lẫn nền văn hoá của dân tộc này với dân tộc khác. bản sắc văn hóa dân tộc biểu hiện cho sức sống, sự sáng tạo và phát triển của dân tộc đó. Trong khuôn khổ của luận văn, bản sắc văn hóa dân tộc được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, đó là những đặc trưng tiêu biểu, tiến bộ, riêng biệt của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Điện Biên – mảnh đất lịch sử anh hùng của Tổ quốc.
1.4. Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc
1.4.1. Giáo dục văn hóa dân tộc
Giáo dục văn hóa dân tộc là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất, năng lực, trí thức cần thiết về giá trị vật chất và tinh thần, kinh nghiệm ứng xử, lối sống, ngôn ngữ
…của một dân tộc hướng tới sự phát triển toàn diện của người học trong đời sống văn hóa xã hội của chính dân tộc đó. Chính vì vậy, quan tâm đến việc giáo dục văn hóa dân tộc là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong thời gian qua.
1.4.2. Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh
Nhiệm vụ vận dụng các giá trị văn hóa để giáo dục học sinh là mục tiêu lớn của ngành giáo dục đã được khẳng định trong luật giáo dục: “ thừa kế và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc , tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.”[17, tr.2] .
Trường PTDTNT có chức năng giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh dân tộc nhằm đảm bảo quyền của học sinh trong giáo dục. Nhờ có giáo dục văn hóa dân tộc, học sinh của trường PTDTNT được phát triển toàn diện, giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, trở thành những công dân có tri thức, có văn hóa của dân tộc mình. Giáo dục văn hóa dân tộc trong trường PTDTNT còn góp phần quan trọng vào thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc [3,tr.243].
2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh
2.1. Quản lý mục tiêu giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc trong nhà trường
Quản lý mục tiêu giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động quản lý đạt mục tiêu đã đề ra.
Mục tiêu của hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh ở các nhà trường nói chung về cơ bản đều có điểm chung là để nhà trường quản lý thực hiện các chức năng quản lý. Qua đó để nắm bắt, đánh giá tình hình giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh và các vấn đề liên quan đến hoạt động này để tìm ra các biện pháp tác động trở lại với hiệu quả giáo dục bản sắc văn hóa ; loại bỏ các phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ từ đó nâng cao hiệu quả giáo dục bản sắc văn hóa nhằm đạt tới mục tiêu, hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục toàn diện của nhà trường: giáo dục học sinh hòa hợp và thân thiện, vừa có phẩm chất văn minh, hiện đại, vừa có phẩm chất dân tộc, truyền thống, trở thành người cán bộ đáp ứng nhu cầu xây dựng công cuộc mới cho quê hương. Nhìn ở một khía cạnh khác thì quản lý giáo dục bản sắc văn hóa còn giúp cho nhà trường triển khai có hiệu quả việc tổ chức các hoạt động giáo dục, nhằm bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa của mỗi dân tộc.
2.2. Quản lý nội dung, hình thức giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc trong nhà trường
Quản lý nội dung, hình thức giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh bao gồm: Với các nội dung như giáo dục về tình yêu gia đình, yêu quê hương, yêu dân tộc và yêu đất nước; Khiêm tốn, thật thà, cần cù, sáng tạo, có chí vươn lên; Truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán dân tộc; Dạy chữ viết, tiếng nói của dân tộc cùng với tiếng phổ thông; Quan niệm đúng đắn về tình bạn – tình yêu; Phòng tránh các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan; Văn hóa ứng xử, giao tiếp, trang phục….
Với đặc trưng là trường nội trú, mọi hoạt động của học sinh phần lớn đều diễn ra trong nhà trường. Các nội dung, hình thức giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho các em cần được tổ chức một cách đa dạng, linh hoạt, lồng ghép trong các môn học và các hoạt động giáo dục khác của nhà trường một cách hài hòa, phù hợp, hiệu quả.
Để có được các biện pháp thiết thực giúp nâng cao hiệu quả quản lý nội dung, hình thức hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, nhà trường cần phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng tới việc quản lý nội dung, hình thức hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.
2.3. Quản lý kế hoạch thực hiện giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc
Để xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có tính khả thi cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Đảm bảo xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục hàng năm, từng học kỳ của nhà trường.
Trên cơ sở kế hoạch tổng thể của nhà trường, tiến hành xây dựng kế hoạch giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc thông qua các môn học, các buổi sinh hoạt trên lớp, các hoạt động văn hóa – văn nghệ – thể dục thể thao – vui chơi – giải trí; các cuộc thi tìm hiểu bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh. Đây là một nội dung cần thiết bởi vì môi trường để giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc không thể chỉ có trong nhà trường. Mà để nuôi dưỡng nó cần có cả môi trường bên ngoài nhà trường với các lực lượng khác tham gia như: gia đình, họ tộc, bản làng, cộng đồng, …
Tổ chức bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho đội ngũ giáo viên. Hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc trong trường học đòi hỏi người tổ chức, người giảng dạy phải có chuyên môn sâu. Đồng thời hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cần số người tham gia đông, thuộc các lĩnh vực khác nhau. Muốn thực hiện tốt hoạt động này, cần có kế hoạch xây dựng, tuyển chọn đội ngũ cán bộ, giáo viên có đủ năng lực, có tâm huyết và lòng nhiệt tình để triển khai nhiệm vụ. Bên cạnh đó cũng cần hợp tác với đội ngũ chuyên gia về các lĩnh vực liên quan để hỗ trợ cho hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc của nhà trường. Đội ngũ chuyên gia phải là những người hiểu biết sâu, có năng lực tổ chức hoạt động giáo dục học sinh về giá trị văn hóa dân tộc theo từng vùng, miền .
2.4. Quản lý phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc
Trong công tác quản lý, muốn đạt hiệu quả tốt thì cũng cần có phương pháp tổ chức tốt. Vì đặc điểm việc giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc diễn ra trong nhà trường cho nên cần lựa chọn cách thức truyền tải cho phù hợp. Đó là: Giáo dục lồng ghép qua các môn học: vận dụng một phần sản phẩm văn hóa của các dân tộc đã có sự lựa chọn, điều chỉnh đưa vào trong giờ dạy hoặc trong hoạt động ngoài giờ lên lớp để thực hiện một nội dung giáo dục phù hợp với mục tiêu giáo dục học sinh. Thực hiện thông qua tổ chức các cuộc thi, tìm hiểu theo chủ đề. Tổ chức giao lưu giữa học sinh các dân tộc với nhau, tìm hiểu bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc ở địa phương.
2.5. Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc
Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động, là quá trình không thể thiếu được trong tổ chức các hoạt động giáo dục. Đây là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý đồng thời mở ra một chu trình quản lý mới. Kiểm tra gắn liền với đánh giá kết quả đạt được của mục tiêu, phân tích được nguyên nhân thành công và hạn chế để rút ra bài học kinh nghiệm. Bên cạnh đó, kiểm tra còn có chức năng khuyến khích, động viên người làm tốt, ngăn chặn những sai sót có thể xảy ra.
Để kiểm tra việc thực hiện các hoạt động giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc hiệu quả, người quản lý cần tiến hành theo các nội dung sau:
– Lựa chọn vấn đề, nội dung kiểm tra và hình thức, thời điểm kiểm tra: Nội dung kiểm tra có thể bao gồm từ khâu lập kế hoạch đến việc triển khai kế hoạch và hoạt động cụ thể của các lực lượng giáo dục, học sinh và các điều kiện phục vụ cho hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng và các hoạt động giáo dục nói chung.
– Kiểm tra, đánh giá sẽ giúp hiệu trưởng và đội ngũ giáo viên có trách nhiệm giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh phát hiện các sai sót, kịp thời điều chỉnh các tác động quản lý để đưa hoạt động giáo dục đến kết quả mong muốn. Đồng thời kiểm tra cũng giúp Hiệu trưởng phát hiện những cách làm hay, các giá trị văn hóa dân tộc tiêu biểu có ảnh hưởng tốt trong cộng đồng để nhân rộng. Đồng thời qua kiểm tra cũng loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu vẫn tồn tại trong cuộc sống của học sinh, của cộng đồng.
3. Tài liệu tham khảo
- Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, năm 1938.
- Đặng Quốc Bảo, Vấn đề quản lý và quản lý nhà trường. Tài liệu giảng dạy cao học QLGD.Trường ĐHGD – ĐGQG Hà Nội, 2010.
- Đặng Quốc Bảo- Nguyễn Thị Thu Huyền, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý trường phổ thông Dân tộc nội trú .Dự án PTGV THPT& TCCN- – Vụ Giáo dục dân tộc- Cục NG&CBQLCSGD, NXB Văn hóa – Thông tin, 2013.
- Báo cáo tổng kết năm học 2009-2010 (Nguồn: Sở GD& ĐT Điện Biên).
- Báo cáo tổng kết năm học 2013-2014 (Nguồn: Sở GD&ĐT Điện Biên).
- Báo cáo thi đua năm học 2013-2014 của trường PTDT Nội trú Tỉnh Điện Biên.
- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
- Nông Quốc Chấn, Hoàng Tuấn Cư, Lò Giàng Páo – Chủ biên (1996):
- Văn hoá và sự phát triển các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
- Nguyễn Quốc Chí – Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2012), Đại cương khoa học quản lý. Trường Đại học giáo dục- ĐHQG Hà Nội.
- Nguyễn Quốc Chí – Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2003), Những quan điểm giáo dục hiện đại. Tập bài giảng, khoa Sư phạm, ĐHQG Hà Nội.
- Nguyễn Quốc Chí- Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đại cương khoa học quản lý.Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, 2010.
- Chỉ thị số 40/2008/CT – BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ GD&ĐT
- Phạm Minh Hạc, Một số vấn đề về GD và khoa học GD. NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 2005.
- Phạm Minh Hạc và nhiều tác giả (2002), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Bùi Minh Hiền – Chủ biên (2006): Quản lý giáo dục, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
The post Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh appeared first on Luận văn 1080.
No comments:
Post a Comment