Tuesday, February 19, 2019

Cơ sở lý luận về tội không tố giác tội phạm

Tội không tố giác tội phạm – một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học người biết tội phạm mà không tố giác sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Cơ sở lý luận về tội không tố giác tội phạm

Cơ sở lý luận về tội không tố giác tội phạm

 

1. khái lược sự hình thành và phát triển những quy định về tội không tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam

1.1. Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lê cho đến trước năm 1945 

Tội không tố giác tội phạm là một trong những tội phạm được quy định rất sớm trong luật hình sự Việt Nam.

Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) – Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê đã đề cập tội không tố giác tội phạm tại Điều 500:

Những người biết có kẻ mưu phản loạn, mưu đại nghịch, thì phải đến mật báo ngay với các quan ty gần đó, nếu không tố cáo, thì xử tội lưu đi châu xa. Biết có kẻ chỉ trích nhà Vua hay là đặt ra những lời quái gở mà không đi báo, thì xử nhẹ hơn tội kể trên một bậc. Quan ty thấy báo mà không tâu lên hay đi bắt ngay (quan ở kinh thành thì phải tâu ngay, quan ở ngoài thì phải bắt ngay), để quá nửa ngày, thì cũng phải tội như kẻ không đi báo. Nếu là việc truy bắt còn phải sắp đặt nên quá thời hạn trên thì không phải tội [41, tr. 181-182].

Đáng chú ý, Quốc triều Hình luật đã phân biệt trách nhiệm phát hiện, tố giác tội phạm giữa quan và dân thường như quy định tại Điều 158 Bộ luật: Các quan giám lâm, quan chủ ty biết thuộc viên phạm tội mà không phát giác, xử biếm hai tư, đàn cư quan biết mà không phát giác, tội cũng như thế. Những người biết hàng xóm của mình phạm tội mà không phát giác, tội giảm một bậc. Riêng việc đúc tiền và việc phản nghịch là tội nặng, thì luận tội khác [41, tr. 79].

Điều 355 Bộ luật còn quy định việc khen thưởng cho người tố giác tội phạm: “Dân đinh mà tự thiến mình, thì xử tội lưu; ai thiến hộ hoặc chứa chấp kẻ ấy, thì giảm tội một bậc; các nhà lân cận không tố cáo, thì xử tội nhẹ hơn hai bậc; xã quan không phát giác, thì xử tội đồ; người tố cáo đúng sự thật thì được thưởng một tước tư” [41, tr. 119]. Đặc biệt, Điều 373 Bộ luật còn đồng nhất việc không tố giác tội phạm với che giấu tội phạm trong trường hợp quan biết mà không tố giác:

Những người cày ruộng đất công mà khai dối là cày cấy cho quan ty, để mong tránh đóng thuế, thì xử tội theo luật chiếm ruộng đất công. Quan ty dung túng thì cũng đồng tội; không biết thì không xử tội. Xã quan biết mà không tố giác thì xử tội giấu giếm; không biết thì được giảm 2 bậc; quan lộ huyện vô tình không biết thì xử tội biếm [41, tr. 137].

Bộ luật này còn đề cập việc tố giác ông bà, cha mẹ, vợ chồng phạm tội tại Điều 504:

Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ, nô tỳ tố cáo chủ có tội lỗi gì, đều xử tội lưu đi châu xa; vợ tố cáo chồng cũng bị tội trên. Tố cáo ông bà ngoại, cha mẹ và ông bà, cha mẹ về bậc tôn trưởng vào hàng cơ thân của chồng, cùng là nô tỳ tố cáo người vào bậc cơ thân của chủ, dẫu việc có thật, cũng phải tội biếm hay tội đồ; nếu là tội mưu phản, đại nghịch hay là mẹ đích, mẹ kế mà giết cha, cha mẹ nuôi giết con đẻ thì cho phép tố cáo [41, tr. 183].

Đây là quy định mang tính nhân văn, thể hiện truyền thống tôn kính đối với ông bà, cha mẹ, đồng thời kết hợp được chữ “hiếu” đối với sự tồn vong của đất nước. Chính vì vậy, mặc dù tại khoản 7 Điều 2 của Bộ luật này quy định bất hiếu là một trong mười tội ác (thập ác): “Bất hiếu là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái với lời cha mẹ dạy bảo” [41, tr. 37], nhưng Bộ luật này vẫn quy định: nếu là tội mưu phản, đại nghịch hay là mẹ đích, mẹ kế mà giết cha, cha mẹ nuôi giết con đẻ thì cho phép tố cáo.

Điều 508 Bộ luật đã quy định cụ thể cách thức tố cáo: “Tố cáo tội người, thì phải ghi năm tháng và trình bày sự thực không được nói là việc còn ngờ (nói việc đó không đáng tin cũng vậy); trái luật này thì phải phạt 80 trượng; quan nhận những đơn trái lệ này, mà đem ra xét xử, thì phạt tiền 30 quan” [41, tr. 184].

Như vậy, trong Bộ luật Hồng Đức, tội không tố giác tội phạm đã được tương đối cụ thể, chi tiết, thể hiện trình độ lập pháp hình sự rất cao của cha ông chúng ta thời kỳ này.

Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị”, chia đất nước Việt Nam làm ba xứ với ba chế độ chính trị khác nhau. Nam Kỳ là đất thuộc địa, không còn quan hệ phụ thuộc vào triều đình Huế; Bắc Kỳ là đất “nửa bảo hộ” đặt dưới quyền cai trị của một viên thống sứ người Pháp; ở Trung Kỳ, triều đình bù nhìn vẫn còn được duy trì với danh hiệu “Chính phủ Nam triều”, nhưng quyền hành thực tế nằm trong tay viên khâm sứ người Pháp là chủ tịch Hội đồng bảo hộ Trung Kỳ [35, tr. 86]. ở Nam Kỳ, theo Điều 11 Sắc luật ngày 25-7-1884, Bộ luật Gia Long được áp dụng đối với người phạm tội là người bản xứ. Trong Sắc luật ngày 16-3-1890, thực dân Pháp quy định từ thời điểm này, các Tòa án ở Nam Kỳ phải áp dụng pháp luật hình sự của Pháp thay cho Bộ luật Gia Long, ngoại trừ trường hợp pháp luật hình sự của Pháp chưa dự liệu được [18, tr. 132-133]. Sắc luật ngày 31-12-1912 của toàn quyền Đông Dương đã sửa đổi 56 điều của Bộ luật hình sự Pháp thành Hình luật canh cải (Code pénal modifié) và cho áp dụng tại Nam Kỳ.

Ở Bắc Kỳ, Nghị định ngày 2-12-1921 của toàn quyền Đông Dương đã cho áp dụng Luật hình An Nam. ở Trung Kỳ, bằng Dụ số 43 ngày 31-7-1933 của Bảo Đại, Hoàng Việt hình luật được ban hành. Trong Hoàng Việt hình luật, không có quy định về tội không tố giác tội phạm, mà đề cập đến việc tố cáo những người thân thuộc, bất hiếu, bất cố gia truyền. Điều 341 Bộ luật này quy định:

Phàm cáo giác ông bà cha mẹ, tức là bất hiếu sẽ bị câu cầm từ 6 năm đến 10 năm. Trừ trường hợp sau này thời người cáo giác không có tội: hoặc cha mẹ ông bà phạm một tội đại hình có can đến sự trị an của Bổn quốc (hay nước bảo hộ), hoặc là mẹ giết cha, cha giết mẹ hoặc cha mẹ mình làm con nuôi cho người ta mà giết cha mẹ nuôi hoặc cha mẹ nuôi giết cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ giết ông bà nội, ông bà ngoại hoặc là cha mẹ ông bà ngược đãi con bé chưa đến 16 tuổi và đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng [23].

Quy định này cho thấy, ngoài việc tiếp tục kế thừa tinh hoa của Bộ luật Hồng Đức, Hoàng Việt hình luật đã thể hiện rõ sự thuộc vào nước Pháp bảo hộ của chính quyền thực dân phong kiến.

1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước công nông non trẻ đầu tiên ở Đông Nam á, đã tiến hành tích cực hoạt động lập pháp nói chung và hoạt động lập pháp hình sự nói riêng. Chỉ trong gần bốn tháng năm 1945 và năm 1946, Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, đáp ứng yêu cầu giữ vững chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển lực lượng, chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài của cả nước.

Tuy nhiên, do tình hình hết sức khẩn trương, không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết nói riêng, nên ngày 10-10-1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có bộ “Luật hình An Nam”, bộ “Hoàng Việt hình luật” và bộ “Hình luật pháp tu chính” với điều kiện “không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa” [10, tr. 190].

Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến năm 1954 là thời điểm ký Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là Chính phủ kháng chiến, pháp luật ta cũng là pháp luật kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, do phải tập trung quy định các tội phạm liên quan đến sự an nguy của chính quyền nhân dân như các tội phản bội Tổ quốc, tội gián điệp, tội hối lộ, tham ô…, cho nên, trong giai đoạn này, tội không tố giác tội phạm chưa được quy định.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Tình hình đó đã hình thành ở nước ta “hai khu vực có chế độ chính trị và xã hội khác nhau” [22, tr. 505]. ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà.

Sắc lệnh số 267-SL ngày 15-06-1956 của Nhà nước ta về trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã, của nhân dân và cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch Nhà nước đã đề cập vấn đề tố giác tội phạm tại Điều 14: “Đối với kẻ phạm pháp, nhân dân có nhiệm vụ tố cáo hoặc mật báo với cơ quan có trách nhiệm và hết sức giúp đỡ việc điều tra xét xử, nhưng không được vì thù riêng, lợi riêng mà vu cáo. Người nào có công trong việc tố cáo, khám phá các vụ phạm pháp, tìm bắt kẻ có tội, sẽ được khen thưởng” [10, tr. 117]. Tuy nhiên, Sắc lệnh chưa có quy định về trường hợp không thực hiện nghĩa vụ này, thì phải có chịu trách nhiệm hình sự hay không?

Về mặt lập pháp hình sự, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự ban hành trong thời gian sau đó như Pháp lệnh ngày 30-10-1967 trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân, đều đã đề cập vấn đề động viên nhân dân tố giác tội phạm ở lời nói đầu: “Để nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân, động viên toàn dân tích cực tham gia giữ gìn trật tự an ninh” [10, tr. 193] và “Để phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội và toàn thể nhân dân, đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, động viên mọi người ra sức đấu tranh chống những hành động xâm phạm tài sản đó” [10, tr. 203]. Tuy nhiên, cả hai Pháp lệnh này đều chưa đề cập tội không tố giác tội phạm, mà chỉ quy định nguyên tắc tương tự. Ví dụ: Điều 21 Pháp lệnh ngày 30-10-1967 trừng trị các tội phản cách mạng, quy định: “Đối với những tội phản cách mạng chưa nêu trong Pháp lệnh này, thì áp dụng những điều về tội phạm tương tự trong Pháp lệnh này mà xét xử” [10, tr. 198]. Trong thời gian này, các Tòa án của ta đã xét xử một số trường hợp không tố giác tội phạm nghiêm trọng như tội phản cách mạng, tội giết người. Ví dụ: bản án số 13 ngày 20-03-1958 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử phạt Nguyễn Thị Chất là vợ Hải 3 năm quản chế, vì khi biết âm mưu, hoạt động của bọn Hải mà không tố cáo với cơ quan có thẩm quyền.

Đối với những hành vi không tố giác những tội phạm ít nghiêm trọng, thực tiễn xét xử của ta trong thời gian này không coi là tội phạm cần truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều đó xuất phát từ tình hình xã hội ta lúc đó: tâm lý sợ thù oán không dám tố giác, tình cảm nể nang trong gia đình còn khá phổ biến. Vì vậy, chủ yếu áp dụng biện pháp giáo dục nhiều hơn là biện pháp trừng trị bằng pháp luật hình sự.

Từ sau ngày miền Nam được giải phóng cho đến năm 1979, trong bối cảnh Mỹ và các thế lực thù địch khác ra sức bao vây, cấm vận, nước ta còn phải đối phó với hai cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc. Ngoài ra, chúng ta còn phải đương đầu với những khó khăn chồng chất và gay gắt về kinh tế và đời sống; tình hình tiêu cực, nhất là tệ hối lộ diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV đã đề ra chủ trương: “Kiên quyết đấu tranh khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội, nhất là tệ ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng” [38, tr. 8]. Để kịp thời thể chế hóa chủ trương trên của Đảng và trên cơ sở Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, ngày 20-5-1981, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ. Sự ra đời của Pháp lệnh là một sự kiện pháp lý quan trọng, góp phần giữ vững và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, động viên, cổ vũ quần chúng nhân dân tích cực đấu tranh chống tệ hối lộ và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác trong xã hội. Nhằm động viên mọi công dân trong việc tố giác tội hối lộ, Điều 12 Pháp lệnh quy định việc khen thưởng cả về tinh thần và vật chất đối với những người có công phát hiện tội hối lộ:

Những người không nhận hối lộ và tố giác với cơ quan có trách nhiệm người đưa hối lộ hoặc người môi giới hối lộ thì được khen thưởng theo quy định chung của Nhà nước. Những người tố giác và giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm trừng trị tội hối lộ thì được khen và được thưởng tiền bằng 10% giá trị của hối lộ đã bị tịch thu [38, tr. 69].

Tuy nhiên, Pháp lệnh vẫn chưa đề cập tội không tố giác tội phạm. Trong thời gian từ năm 1978 đến những năm 1980, 1981, tình hình đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép diễn biến phức tạp, gây rối loạn thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch nhà nước và đời sống của nhân dân. Đấu tranh chống các loại tội phạm, những hiện tượng tiêu cực trên thị trường là một yêu cầu cấp bách nhằm thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trên mặt trận phân phối lưu thông, góp phần ổn định giá cả, thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống của nhân dân. Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30-6-1982 là để đáp ứng yêu cầu trên và nguyện vọng của nhân dân.

Để động viên, khuyến khích việc tố giác đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, Điều 12 Pháp lệnh quy định:

Người có công trong việc chống đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, được xét khen thưởng theo chế độ chung của Nhà nước. Ngoài ra, tùy theo tính chất của vụ án và công lao đóng góp của mỗi người, còn được thưởng một khoản tiền từ 5% đến 10% trị giá hàng hóa tịch thu hoặc tiền phạt [35, tr. 98]. Cũng như Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ, Pháp lệnh này chưa đề cập tội không tố giác tội phạm.

Cùng với sự phát triển của khoa học luật hình sự, khái niệm tội không tố giác tội phạm đã bắt đầu xuất hiện trong các sách báo pháp lý. Giáo trình hình luật xã hội chủ nghĩa của Trường cao đẳng Kiểm sát Hà Nội đã đề cập tội không tố giác tội phạm và đưa ra khái niệm không tố giác tội phạm:

Không tố giác tội phạm nghĩa là không báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về một tội phạm mà mình biết đang được chuẩn bị thực hiện hoặc đã được thực hiện hoặc biết rõ một kẻ sắp phạm tội hay đã phạm tội rồi nhưng không báo cáo. Tội không tố giác tội phạm khác với tội che giấu ở chỗ, hành vi của kẻ không tố giác là một hành vi tiêu cực (biết chắc chắn mà không báo cáo) [54, tr. 189].

1.3. Giai đoạn từ bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự năm 1999

Trong quá trình thực hiện các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng trên một số lĩnh vực kinh tế – xã hội, tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật đầu tiên cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, chúng ta đã gặp phải không ít khó khăn và khuyết điểm như chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu mô hình kinh tế quan liêu, bao cấp, nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc ban hành Bộ luật hình sự là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 27-6-1985, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, tại kỳ họp thứ 9, đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1985).

Bộ luật hình sự năm 1985 là Bộ luật hình sự đầu tiên của chế độ dân chủ nhân dân, đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới.

Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, Bộ luật đã có quy định về tội không tố giác tội phạm tại Điều 19: “Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định”. Việc Bộ luật hình sự năm 1985 chính thức ghi nhận về mặt pháp lý tội không tố giác tội phạm, là bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự của Nhà nước ta.

Để bảo đảm hoạt động tư pháp được thực hiện đúng đắn, Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại Chương X. Trừ tội bắt, giam, khám người, khám đồ vật, nhà ở, thư tín trái phép và tội tra tấn, dùng nhục hình đã được quy định trong Luật số 103-SL ngày 20-5-1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân, các tội phạm khác, trong đó có tội không tố giác tội phạm mới được quy định tại chương này.

Điều 19 Bộ luật chưa quy định cụ thể những trường hợp không tố giác tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 247 Bộ luật quy định cụ thể về những trường hợp không tố giác tội phạm cấu thành tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự. Nói cách khác, Điều 247 đã liệt kê các tội cụ thể mà hành vi không tố giác tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự:

1.  Người nào biết rõ một trong những tội phạm quy định ở các điều sau đây đang được chuẩn bị hoặc đã được thực hiện mà không tố giác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

  Các điều từ 72 đến Điều 85 về các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia; Điều 87 (tội chiếm đoạt máy bay, tàu thủy); Điều 94, khoản 2 (tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 95, khoản 2 và 3 (tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 96, khoản 2 và 3 (tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ); Điều 96 a, khoản 2 và 3 (tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy); Điều 98 (tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá hủy tiền tệ);

  Điều 101 (tội giết người); Điều 112, khoản 2, 3 và 4 (tội hiếp dâm);

 Điều 129 (tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa); Điều 132, khoản 2 và 3 (tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa); Điều 133, khoản 2 và 3 (tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa); Điều 138, khoản 2 và 3 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa);

  Điều 151 (tội cướp tài sản của công dân); Điều 152 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân);

  Điều 165, khoản 2 và 3 (tôi đầu cơ); Điều 172, khoản 2 và 3 (tội chiếm đoạt tem, phiếu, tội làm hoặc lưu hành tem, phiếu, giấy tờ giả dùng vào việc phân phối;

  Điều 245, khoản 2 (tội trốn khỏi nơi giam);

2.  Người không tố giác tội phạm nếu có hành động ngăn chặn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.

1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 cho đến nay

Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành trong những năm của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, mặc dù đã phản ánh được nhu cầu bức xúc của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thời kỳ đó, nhưng ở một mức độ nhất định vẫn chịu ảnh hưởng nhất định của cơ chế đó. Vì vậy, một số quy định trong Bộ luật này không phù hợp cho việc bảo vệ các quan hệ phát sinh trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về kỹ thuật lập pháp hình sự, Bộ luật hình sự năm 1985 còn có những hạn chế nhất định như bố cục một số chương, điều chưa hợp lý, nhiều tội danh được quy định quá chung chung; một số hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nhưng lại được quy định trong một điều luật với cùng một chế tài; khung hình phạt trong nhiều điều luật quá rộng, dễ dẫn đến tiêu cực… Hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự năm 1985 là qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật đã không còn là một chỉnh thể thống nhất.

Trong đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Đảng ta đã đề ra, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985 là một đòi hỏi khách quan của hoạt động lập pháp hình sự. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 21-12-1999, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6, đã thông qua Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999), thay thế cho Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 1-7-2000.

Trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 314. So với quy định tương ứng tại Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1985, tội không tố giác tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những nội dung được sửa đổi, bổ sung như sau:

Thứ nhất, bổ sung khoản mới (khoản 2) nhằm thu hẹp phạm vi trách nhiệm hình sự của ông, bà, cha, mẹ, con cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người có hành vi không tố giác, khi biết người thân của mình phạm tội. Quy định này được bổ sung trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống nhân văn trong pháp luật của ông cha ta. Trong Bộ luật Hồng Đức đã quy định việc không trừng phạt phạt (trừ tội mưu phản, đại nghịch hay là mẹ đích, mẹ kế mà giết cha, cha mẹ nuôi giết con đẻ) đối với việc không tố giác tội phạm giữa những người thân thích. Đây là sự ghi nhận mối quan hệ tình cảm gia đình sâu nặng vốn là một trong những nét đặc trưng của truyền thống văn hóa á Đông.

Theo quy định mới được bổ sung, thì người không tố giác là ông, bà, cha, em, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia (quy định tại các điều từ 78 đến Điều 91 Bộ luật) hoặc các tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được liệt kê tại khoản 1 Điều 313 (chứ không phải mọi tội phạm được quy định tại Điều 313 Bộ luật hình sự năm 1999).

Thứ hai, bổ sung vào cấu thành tội phạm hành vi “đang được thực hiện mà không tố giác” cho đầy đủ, bởi lẽ Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hành vi “đã được thực hiện mà không tố giác”, chưa quy định hành vi nêu trên.

Thứ ba, không liệt kê các điều, khoản của Bộ luật hình sự về các tội mà nếu không tố giác thì phải chịu trách nhiệm hình sự, mà chỉ viện dẫn Điều 313 Bộ luật hình sự cho điều luật được ngắn gọn.

Thứ tư, tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985, quy định đến một năm) và giữ nguyên mức phạt tù đối với tội này.

2. Tội không tố giác tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999

2.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm

Để có thể làm sáng tỏ khái niệm tội không tố giác tội phạm, trước hết cần làm rõ khái niệm không tố giác tội phạm.

Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta quy định ba dạng hành vi liên quan đến tội phạm là che giấu tội phạm (Điều 21), không tố giác tội phạm (Điều 22) và chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 250). Trong cả hai bộ luật này, các nhà lập pháp không sử dụng cụm từ “liên quan đến tội phạm”, nhưng đều có quy định về hành vi cố ý liên quan đến tội phạm do người khác thực hiện; người thực hiện hành vi liên quan đến tội phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người đó, bởi lẽ hành vi này không phải là hành vi thực hành, tổ chức, xúi giục, giúp sức, vì vậy chỉ có thể cấu thành tội phạm độc lập với tội phạm do người khác thực hiện trong những trường hợp được Bộ luật quy định [42, tr. 199-200]. Không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 22 Bộ luật hình sự năm 1999:

1- Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 313 của Bộ luật này.

2-  Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 313 của Bộ luật này. Tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 314:

3-  Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 313 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

4-  Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 điều này.

5-  Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.Để có thể hiểu rõ điều 314, cần tìm hiểu tiếp Điều 313 Bộ luật hình sự năm 1999:

6-  Người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong các tội phạm quy định tại các điều sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm:

– Các điều từ Điều 78 đến Điều 91 về các tội xâm phạm an ninh quốc gia;

  Điều 93 (tội giết người); Điều 111, các khoản 2, 3 và 4 (tội hiếp dâm); Điều 112 (tội hiếp dâm trẻ em); Điều 114 (tội cưỡng dâm trẻ em); Điều 116, các khoản 2 và 3 (tội dâm ô đối với trẻ em); Điều 119, khoản 2 (tội mua bán phụ nữ);

  Điều 120 (tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em);

 Điều 133 (tội cướp tài sản); Điều 134 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 138, các khoản 2, 3 và 4 (tội trộm cắp tài sản); Điều 139, các khoản 2, 3 và 4 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 140, các khoản 2, 3 và 4 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản); Điều 143, các khoản 2, 3 và 4 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);

  Điều 153, các khoản 3 và 4 (tội buôn lậu); Điều 154, khoản 3 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 155, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm); Điều 156, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 157 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 158, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 160, các khoản 2 và 3 (tội đầu cơ); Điều 165, các khoản 2 và 3 (tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 166, các khoản 3 và 4 (tội lập quỹ trái phép); Điều 179, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng); Điều 180 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả); Điều 181 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác); Điều 189, các khoản 2 và 3 (tội hủy hoại rừng);

  Điều 193 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 194 (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy); Điều 195 (tội tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng cho việc sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 196, khoản 2 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy); Điều 197 (tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy); Điều 198 (tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy); Điều 200 (tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy); Điều 201, các khoản 2, 3 và 4 (tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác);

  Điều 206, các khoản 2, 3 và 4 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 221(tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy); Điều 230 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 231 (tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 232, các khoản 2, 3 và 4 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ); Điều 236, các khoản 2, 3 và 4 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ); Điều 238, các khoản 2, 3 và 4 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc);

 Điều 256, các khoản 2 và 3 (tội mua dâm người chưa thành niên);

 Điều 278, các khoản 2, 3 và 4 (tội tham ô tài); Điều 279, các khoản 2, 3 và 4 (tội nhận hối lộ); Điều 280, các khoản 2, 3 và 4 (tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản); Điều 281, các khoản 2 và 3 (tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ); Điều 282, các khoản 2 và 3 (tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ); Điều 283, các khoản 2, 3 và 4 (tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi); Điều 284, các khoản 2, 3 và 4 (tội giả mạo trong công tác); Điều 289, các khoản 2, 3 và 4 (tội làm môi giới hối lộ);

 Điều 311 khoản 2 (tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử);

  Các điều từ Điều 341 đến Điều 344 về các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.

2-  Phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc phát hiện tội phạm hoặc có những hành vi khác bao che người phạm tội, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Từ những quy định trên cho thấy:

Thứ nhất, không tố giác tội phạm là hành vi của một người, tuy không hứa hẹn trước và không tham gia vào việc thực hiện tội phạm, nhưng biết rõ tội phạm do người khác đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện nhưng không thông báo về tội phạm và người phạm tội cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, ủy ban nhân dân các cấp để kịp thời ngăn chặn, phát hiện, xử lý tội phạm và người phạm tội.

Thứ hai, không phải mọi hành vi không tố giác tội phạm đều phải chịu trách nhiệm hình sự, mà chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp quy định tại Điều 313 của Bộ luật này.

Thứ ba, người không tố giác là ông, bà, cha, em, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia (quy định tại các điều từ 78 đến Điều 91 Bộ luật) hoặc các tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được liệt kê tại khoản 1 Điều 313 (chứ không phải mọi tội phạm được quy định tại Điều 313 Bộ luật hình sự năm 1999).

Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm không tố giác tội phạm như sau: không tố giác tội phạm là hành vi của một người, tuy không hứa hẹn trước và không tham gia vào việc thực hiện tội phạm, nhưng biết rõ tội phạm do người khác đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện nhưng không thông báo về tội phạm và người phạm tội cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, ủy ban nhân dân các cấp để kịp thời ngăn chặn, phát hiện, xử lý tội phạm và người phạm tội.

Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm tội không tố giác tội phạm

Trước hết, cần khẳng định, tội không tố giác tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện

chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [17, tr. 105].

Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học chưa đưa ra khái niệm tội không tố giác tội phạm, nhưng đã đưa ra khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam cho rằng: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các Cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [27, tr. 405].

Trên cơ sở phân tích các khái niệm trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm tội không tố giác tội phạm như sau: tội không tố giác tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tuy không tham gia vào việc thực hiện tội phạm, nhưng biết rõ tội phạm do người khác đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện, nhưng cố ý không tố giác tội phạm và người phạm tội cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, ủy ban nhân dân các cấp để kịp thời ngăn chặn, phát hiện, xử lý tội phạm và người phạm tội, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự của tội không tố giác tội phạm và hình phạt

2.2.1. Khách thể của tội phạm

Khoa học luật hình sự cho rằng, trong hệ thống những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, các quan hệ xã hội có ý nghĩa khác nhau đối với sự củng cố và phát triển của xã hội, được Nhà nước bảo vệ bằng những quy phạm pháp luật khác nhau. Khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định cần được bảo vệ bằng những quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội đó sẽ là khách thể của tội phạm trong trường hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định.

Tố giác tội phạm và những hành vi vi phạm pháp luật khác là quyền cơ bản của công dân. Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào”. Khoản 3 Điều 4 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định: “Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Việc trốn tránh nghĩa vụ tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm bị coi là hành vi trái đạo đức và trái pháp luật; người không tố giác tội phạm trong những trường hợp do pháp luật hình sự quy định, phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc không tố giác tội phạm gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử.

Từ sự phân tích ở trên, có thể thấy, tội không tố giác tội phạm xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp, bởi lẽ các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và một số cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp có nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, trên cơ sở các quy định của pháp luật, nhưng khi bị hành vi nguy hiểm cho xã hội – hành vi không tố giác tội phạm xâm phạm đến, thì chính hoạt động đúng đắn này lại trở thành khách thể bị xâm hại của tội không tố giác tội phạm.

2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Như các tội phạm khác, tội không tố giác tội phạm khi xảy ra, đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bền ngoài, mà con người có thể trực tiếp nhận biết được. Đó là:

 Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;

  Hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cũng như mối quan hệ giữa hành vi khách quan và hậu quả.

  Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (thời gian, địa điểm phạm tội…).

Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội không tố giác tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.

Hành vi khách quan của tội không tố giác tội phạm luôn luôn được thể hiện dưới hình thức không hành động, mà trong khoa học luật hình sự, không hành động phạm tội được hiểu là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm, mặc dù có đủ điều kiện để làm.

Hành động hay không hành động phạm tội đều là những biểu hiện của con người ra ngoài thế giới khách quan, được ý thức kiểm soát, ý chí điều khiển và đều có khả năng làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

Đối với hình thức hành động phạm tội, tính trái pháp luật hình sự của hành vi được thể hiện ở chỗ, việc đã làm bị luật hình sự ngăn cấm, không kể chủ thể thực hiện là ai.

Đối với hình thức không hành động phạm tội, tính trái pháp luật hình sự của hành vi được thể hiện ở chỗ, việc phải làm mà chủ thể đã không làm (mặc dù có điều kiện để làm) là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể. Nghĩa vụ pháp lý này có thể được phát sinh do các căn cứ: luật định, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nghề nghiệp, hợp đồng hoặc do xử sự trước đó của chủ thể. Như vậy, điều kiện có thể buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không hành động của mình là:

 Người đó phải có nghĩa vụ hành động; và

 Người đó có đủ điều kiện thực hiện nghĩa vụ này.

Đối với tội không tố giác tội phạm, nghĩa vụ pháp lý này phát sinh do luật định. Khiếu nại, tố cáo về tội phạm và những hành vi vi phạm pháp luật khác là quyền cơ bản của công dân. Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định:

Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.

Như vậy, khiếu nại và tố cáo là quyền cơ bản của công dân, nhưng công dân còn có nghĩa vụ phát hiện, tố giác tội phạm. Điều 25 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:

  1. Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
  2. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công dân tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm cho tổ chức đã báo tin, người đã tố giác tội phạm biết.
  3. Các tổ chức, công dân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.

Tội không tố giác tội phạm là loại tội chỉ thực hiện được bằng không hành động, tức là sự làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động chỉ có thể xảy ra khi chủ thể không tố giác tội phạm, người phạm tội với cơ quan có thẩm quyền, trong khi có đủ điều kiện để tố giác.

Người phạm tội có khả năng thực tế tố giác tội phạm là người có điều kiện về mặt thực tế như không gian, thời gian, về điều kiện vật chất, hoàn cảnh hiện tại… để tố giác, không bị các điều kiện khách quan ràng buộc. Nói cách khác, họ có đủ điều kiện để trình báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu.

Nếu người đó hoàn toàn có đủ khả năng thực hiện việc tố giác tội phạm, nhưng đã không sử dụng khả năng này, thì trách nhiệm hình sự mới đặt ra.

Pháp luật không quy định cụ thể trong khoảng thời gian bao lâu, công dân phải báo cáo về tội phạm mà mình biết cho cơ quan có thẩm quyền. Việc giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào những tình tiết cụ thể của vụ án, nhưng yêu cầu chung của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm là phải phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh và không để một tội phạm nào xảy ra mà không bị phát hiện, xử lý. Yêu cầu đó đòi hỏi mọi công dân phải tố giác ngay về tội phạm mà mình biết khi có đủ khả năng thực hiện việc tố giác đó.

Nếu một người biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện, nhưng vì những lý do nào đó, không tố giác ngay, mà qua một khoảng thời gian nhất định đấu tranh tư tưởng, mới tố giác và trên cơ sở sự tố giác đó, cơ quan có thẩm quyền đã ngăn chặn tội phạm, bắt giữ được kẻ phạm tội, thì người đó sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp tố giác quá muộn, lại không có lý do chính đáng (như ốm đau, bệnh tật hoặc do nhưng nguyên nhân bất khả kháng khác) và cơ quan có trách nhiệm không còn khả năng để ngăn chặn, xử lý tội phạm và người phạm tội, thì người đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm. Ví dụ: khoảng 01 giờ sáng ngày 10-2-2002, Nguyễn Văn A có hành vi lén lút vào kho hàng của Công ty dịch vụ T.M trộm cắp 10 bộ giàn máy vi tính trị giá 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng/bộ. A đã vận chuyển được cả 10 bộ giàn máy tính này ra đường quốc lộ cách kho hàng 150 mét. Sau đó, dùng xe đạp (loại xe đạp điện) vận chuyển được 7 bộ về gia đình cất giấu. Khi A đang vận chuyển 3 bộ còn lại thì gặp Hoàng Văn C là người cùng khu phố với A (C biết rõ 3 bộ giàn máy vi tính này là do A trộm cắp của công ty dịch vụ T.M). A có nhờ C vận chuyển giúp về gia đình nhưng C không nhận lời và bỏ đi (7 bộ giàn máy mà A đã vận chuyển về trước thì C hoàn toàn không biết). Từ khi C biết A trộm cắp tài sản cho đến khi hành vi phạm tội của A bị phát hiện, C đã không báo cáo các cơ quan có thẩm quyền, mặc dù có đầy đủ điều kiện để báo cáo.

Ngày 20-9-2002, hành vi phạm tội của A bị phát hiện. Cơ quan tiến hành tố tụng đã tiến hành khởi tố, điều tra và truy tố, xét xử A về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự (Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng), còn Hoàng Văn C bị truy tố, xét xử về tội “Không tố giác tội phạm” theo khoản 1 Điều 314 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tội không tố giác tội phạm là tội phạm mà pháp luật hình sự quy định có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ khi thực hiện hành vi không tố giác tội phạm. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội không tố giác tội phạm.

Tuy pháp luật hình sự không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội không tố giác tội phạm, nhưng điều đó không có nghĩa là tội phạm không xảy ra. Thực tế cho thấy, hành vi không tố giác tội phạm có thể gây ra thiệt hại cho hoạt động tư pháp và các thiệt hại khác, bởi lẽ hoạt động tư pháp có nhiệm vụ phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh tội phạm, đặc biệt các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về tham nhũng, bảo vệ trật tự kỷ cương, bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tội không tố giác tội phạm gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, bởi lẽ nếu được công dân tố giác kịp thời, thì tội phạm sẽ sớm được phát hiện và xử lý, cơ quan có thẩm quyền sẽ không phải hao tốn sức lực và tiền của vào việc phát hiện tội phạm. Mặt khác, do công dân không tố giác tội phạm, cho nên tội phạm sẽ có thể không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời, gây ra những tổn thất cho Nhà nước, tổ chức và công dân. Hậu quả không có ý nghĩa trong việc định tội, nhưng việc xác định hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không tố giác tội phạm với thiệt hại xảy ra, có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết trách nhiệm hình sự và hình phạt.

Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội, không được đặt ra đối với tội không tố giác tội phạm, bởi lẽ đây là hành vi khách quan của tội không tố giác tội phạm luôn luôn được thực hiện dưới hình thức không hành động.

Cần phân biệt tội không tố giác tội phạm với tội che giấu tội phạm. Không tố giác tội phạm là hành vi luôn được thực hiện dưới hình thức không hành động, thể hiện

sự thụ động của người phạm tội khác với che giấu tội phạm là hành vi được thực hiện dưới hình thức hành động, thể hiện sự chủ động của người phạm tội. Chính vì vậy, tội che giấu tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với tội không tố giác tội phạm, vì sự chủ động đó. Mặt khác, hành vi che giấu tội phạm chỉ có thể xảy ra khi tội phạm đã được thực hiện, còn hành vi không tố giác tội phạm không chỉ xảy ra khi tội phạm đã được thực hiện mà còn có thể xảy ra khi tội phạm đang được chuẩn bị hoặc đang được thực hiện.

Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, hành vi che giấu tội phạm thường đi liền với hành vi không tố giác tội phạm, vì trong hành vi che giấu tội phạm đã bao hàm việc không tố giác tội phạm và việc không tố giác tội phạm bảo đảm cho việc che giấu tội phạm đạt kết quả. Trong trường hợp hành vi che giấu tội phạm đi liền với hành vi không tố giác tội phạm, thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự người đó về cả hai tội hoặc chỉ xử lý về tội không tố giác tội phạm, mà phải xử lý về tội che giấu tội phạm, thì mới phù hợp với tính chất của hành vi phạm tội.

2.2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này trước hết phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi đó. Đối với tội không tố giác tội phạm, người có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi không tố giác tội phạm và có khả năng điều khiển hành vi đó.

Tội không tố giác tội phạm có mức tối đa của khung hình phạt là 3 năm tù, cho nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, đây là tội phạm ít nghiêm trọng. Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định:

  1.   Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
  2.  Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, chủ thể của tội không tố giác tội phạm phải từ đủ 16 tuổi trở lên.

2.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Nếu mặt khách quan của tội không tố giác tội phạm là mặt bên ngoài, thì mặt chủ quan là mặt bên trong, là hoạt động tâm lý của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội không tố giác tội phạm gồm ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.

Tội không tố giác tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi không tố giác tội phạm của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó. Tuy nhiên, trước khi kết luận điều này, phải xác định được: người phạm tội biết rõ hành vi của người phạm tội, nhận thức được hành vi đó cấu thành tội phạm; nếu họ nhận thức không rõ ràng về hành vi của người khác, thì họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi không tố giác của mình. Thực tế cho thấy, với một số tội phạm, không phải ngay một lúc, ai cũng nhận biết được. Còn đối với những trường hợp bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự cũng đều nhận thức được hành vi của người khác là tội phạm, thì người không tố giác cho dù họ có khai nhận rằng, họ không biết hành vi này là tội phạm, thì người đó vẫn không được loại trừ trách nhiệm hình sự.

Nếu một người biết chính xác người khác đang có ý định phạm tội, nhưng chưa có hành động cụ thể, thì người đó dù không tố cáo với cơ quan có thẩm quyền, thì cũng không cấu thành tội không tố giác tội phạm, vì định phạm tội thuộc phạm trù tư tưởng, luật hình sự không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có ý định phạm tội. ý định phạm tội không bị coi là tội phạm, thì người không tố giác người có ý định phạm tội, cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trường hợp người biết rõ về tội phạm và người phạm tội, nhưng lầm tưởng cơ quan điều tra đã biết rõ về tội phạm đó và đang mở cuộc điều tra và sự lầm tưởng đó có cơ sở, thì người đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự, vì không có sự cố ý không tố giác tội phạm. Trường hợp sự lầm tưởng đó không có cơ sở thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm.

Trong khoa học luật hình sự, động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý, còn mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.

Động cơ phạm tội, mục đích phạm tội của người phạm tội không tố giác tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Người phạm tội không tố giác tội phạm, cho dù xuất phát từ bất cứ động cơ, mục đích gì, cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, phải xem xét động cơ phạm tội, mục đích phạm tội của người phạm tội không tố giác tội phạm.

Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, người thực hiện hành vi không tố giác tội phạm có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau như không muốn gây thù oán, sợ bị trả thù, bị gây phiền toái cho bản thân và gia đình, không muốn trở thành người làm chứng trong vụ án, do tình cảm nể nang hoặc vì vụ lợi… và nhằm những mục đích khác nhau như không tố giác tội phạm nhằm mục đích tội phạm không bị khám phá hoặc để nhằm gây đau khổ cho người bị hại…

2.2.5. Hình phạt đối với người phạm tội không tố giác tội phạm

Hình phạt chính được quy định đối với tội không tố giác tội phạm bao gồm: hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và hình phạt tù có mức tối đa là ba năm tù. Khoản 1 Điều 314 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Người nào biết rõ một trong các tội phạm quy định tại Điều 313 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”.

Đối với tội không tố giác tội phạm, nhà làm luật không quy định hình phạt bổ sung. Đáng chú ý, để động viên những người đã có hành vi can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, khoản 3 Điều 314 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định: “Người không tố giác tội phạm nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội

hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt”.

Hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm có thể được biểu hiện dưới các hình thức như khuyên bảo, răn đe người phạm tội để người này từ bỏ việc thực hiện tội phạm hay ra tự thú trước cơ quan bảo vệ pháp luật trước khi tội phạm bị phát hiện hoặc có thể được thực hiện dưới hình thức làm mất tác dụng của những công cụ, phương tiện mà kẻ phạm tội sử dụng vào việc phạm tội hoặc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra.

Những hành động nói trên của người không tố giác tội phạm ở các mức độ khác nhau, có thể tác động đến tư tưởng và hành vi của người phạm tội, làm lung lạc ý thức phạm tội của người đó, từ đó làm giảm mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. Những hành động này rõ ràng làm giảm đi tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi không tố giác tội phạm.

Do đó, việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt đối với người không tố giác tội phạm thuộc hai trường hợp kể trên là hoàn toàn phù hợp với tính chất và hành vi không tố giác tội phạm khi có các tình tiết đó và nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện hiện thái độ mang tính nhân văn trong chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với những người có công trong việc ngăn chặn tội phạm, làm giảm tác hại của tội phạm. Đương nhiên, để xác định miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, cần căn cứ vào những tình tiết cụ thể của vụ án và tác dụng của hành vi can ngăn người phạm tội hoặc hiệu quả của hành động hạn chế tác hại của tội phạm trên thực tế.

3. Những quy định về tội không tố giác tội phạm trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới

Nghiên cứu những quy định về tội không tố giác tội phạm trong pháp luật hình sự của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho thấy, các nước quy định rất khác nhau về tội phạm này.

Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào không có quy phạm định nghĩa về khái niệm không tố giác tội phạm, nhưng có quy định về tội không tố giác tội phạm tại Điều 154: “Người nào biết hoặc thấy hành vi phạm tội của người khác nhưng không báo cho nhà chức trách thì bị phạt tước quyền tự do từ ba tháng đến năm năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do” [39, tr. 46].

Như vậy, theo pháp luật hình sự của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, bất cứ ai biết hoặc thấy về bất kỳ hành vi phạm tội của người khác mà không báo cho nhà chức trách thì đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều đó có nghĩa, Bộ luật hình sự của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào không liệt kê các điều khoản của Bộ luật hình sự về các tội mà nếu không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự như ở Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta.

Bộ luật hình sự Nhật Bản không có quy định về tội không tố giác tội phạm, mà chỉ có quy định về tội che giấu tội phạm và giấu chứng cứ tại Điều 103 và Điều 104.[11, tr. 29].

Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển có quy định về tội không tố giác tội phạm tại Điều 6 chương 23 – Phạm tội chưa đạt, chuẩn bị phạm tội và đồng phạm:

Người nào không kịp thời báo cáo hoặc tố giác một tội phạm đang được thực hiện khi có thể làm việc đó mà không gây nguy hiểm cho bản thân của mình, trong trường hợp có các quy định cụ thể cho việc này, thì bị kết án về tội không tố giác tội phạm tương tự như đã quy định đối với người đồng phạm tham gia phạm tội ở mức độ nhỏ. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, hình phạt không được nặng hơn hình phạt hai năm tù. Trong những trường hợp có quy định đặc biệt, hình phạt đối với tội không tố giác tội phạm cũng được áp dụng đối với người không biết, nhưng đáng ra phải biết là tội phạm đang được thực hiện.

Nếu cha mẹ, thầy cô giáo hoặc những người giám hộ ngoài các trường hợp nói tại Điều 1, vì không báo cáo với nhà chức trách khi có thể làm điều đó và không gây nguy hại cho bản thân hoặc người thân của mình, mà không ngăn chặn được người nằm trong sự kiểm soát của mình thực hiện một tội phạm, thì bị xử phạt theo quy định tại đoạn 1 về tội không tố giác tội phạm.

Hành vi không tố giác hoặc ngăn chặn một tội phạm không bị xử phạt theo luật hình sự trừ khi tội danh được thực hiện đã tiến triển tới mức phải áp dụng hình phạt [13, tr. 85]. Điều 14 Bộ luật này có quy định cụ thể về tội không tố giác tội phản bội Tổ quốc, tội không trung thành với Vương quốc trong đàm phán với nước ngoài, tội gián điệp, tội gián điệp trong trường hợp nghiêm trọng hoặc tội tiết lộ trái phép thông tin bí mật đang được thực hiện mà tiếp tay cho việc thực hiện các tội trên:

Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hoặc đồng phạm các tội phản bội Tổ quốc, tội không trung thành với Vương quốc trong đàm phán với nước ngoài, tội gián điệp, tội gián điệp trong trường hợp nghiêm trọng, tội vô ý làm lộ thông tin bí mật trong trường hợp nghiêm trọng, tội hoạt động tình báo bất hợp pháp, cũng như các hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tội vô ý làm lộ thông tin bí mật, thì hình phạt được áp dụng theo quy định tại chương 23. Người nào có hành vi móc nối với nước ngoài nhằm mục đích chuẩn bị, tạo điều kiện hoặc khả năng thực hiện tội phản bội Tổ quốc, thì bị coi là người đồng phạm tội phản bội Tổ quốc.

Người nào không tố giác tội phản bội Tổ quốc, tội không trung thành với Vương quốc trong đàm phán với nước ngoài, tội gián điệp, tội gián điệp trong trường hợp nghiêm trọng hoặc tội tiết lộ trái phép thông tin bí mật đang được thực hiện mà tiếp tay cho việc thực hiện các tội trên, thì cũng bị xử phạt theo quy định tại chương 23, kể cả trong trường hợp người đó không biết nhưng đáng ra đã phải biết rằng tội phạm đã được thực hiện [13, tr. 69]. Từ những quy định trên, có thể rút ra những nhận xét sau:

Thứ nhất, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển đã có quy phạm định nghĩa về tội không tố giác tội phạm, trong đó vấn đề bảo đảm an toàn cho người tố giác tội phạm được nhà làm luật quan tâm. Theo pháp luật hình sự nước ngày, chỉ người nào không kịp thời báo cáo hoặc tố giác một tội phạm đang được thực hiện khi có thể làm việc đó mà không gây nguy hiểm cho bản thân của mình, trong trường hợp có các quy định cụ thể cho việc này, thì bị kết án về tội không tố giác tội phạm tương tự như đã quy định đối với người đồng phạm tham gia phạm tội ở mức độ nhỏ, còn nếu do báo cáo hoặc do tố giác tội phạm mà bị gây nguy hiểm cho tính mạng, thì nhà làm luật cho phép không tố giác tội phạm đó. Đây là quy định mang tính nhân văn của pháp luật hình sự nước này.

Thứ hai, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển đã có quy định cụ thể về tội không tố giác tội phản bội Tổ quốc, tội không trung thành với Vương quốc trong đàm phán với nước ngoài, tội gián điệp, tội gián điệp trong trường hợp nghiêm trọng hoặc tội tiết lộ trái phép thông tin bí mật đang được thực hiện mà tiếp tay cho việc thực hiện các tội trên.

Thứ ba, hình phạt được áp dụng đối với tội không tố giác tội phạm được quy định không quá hai năm tù.

Trong Bộ luật hình sự năm 1996 của Liên bang Nga, không có quy định về tội không tố giác tội phạm. Đáng chú ý, tội che giấu tội phạm được quy định tại Điều 310 Bộ luật này:

Không hứa hẹn trước mà che giấu tội phạm, thì bị phạt tiền từ 200 lần đến 500 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay khoản thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian từ 2 tháng đến 5 tháng hoặc phạt giam từ 3 tháng đến 6 tháng hoặc phạt tù đến 2 năm.

Ghi chú: vợ chồng hay người thân của người phạm tội không hứa hẹn trước mà che giấu tội phạm, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự [36, tr. 90].

Như vậy, khác với pháp luật hình sự của Liên Xô trước đây có quy định về tội không tố giác tội phạm, pháp luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga không có quy định về tội phạm này. Luận cứ của việc không quy định tội không tố giác tội phạm trong pháp luật hình sự hiện hành là quan điểm cho rằng, phát hiện, đấu tranh phòng, chống tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan chức năng, công dân có quyền chứ không buộc phải phát hiện, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Tương tự như pháp luật hình sự Liên bang Nga, Bộ luật hình sự năm 1997 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng không có quy định về tội không tố giác tội phạm.

Từ sự phân tích ở trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau:

Thứ nhất, những quy định về tội không tố giác tội phạm trong pháp luật hình sự của các nước: Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa rất khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước.

Pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Thụy Điển có quy định về tội không tố giác tội phạm, trong khi đó pháp luật hình sự của Nhật Bản, Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, không có quy định về tội phạm này.

Thứ hai, tương tự như pháp luật hình sự của Việt Nam, pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Thụy Điển đều quy định tội không tố giác tội phạm thuộc loại tội phạm ít nguy hiểm cho xã hội, cho nên hình phạt được áp dụng chủ yếu thuộc các loại hình phạt không tước tự do hoặc mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn là 3 năm tù.

Thứ ba, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển đã đề cập vấn đề bảo đảm an toàn cho người tố giác tội phạm, nếu do báo cáo hoặc do tố giác tội phạm mà bị gây nguy hiểm cho tính mạng, thì nhà làm luật cho phép không tố giác tội phạm đó. Đây là quy định mang tính nhân văn của pháp luật hình sự nước này.

The post Cơ sở lý luận về tội không tố giác tội phạm appeared first on Luận văn 1080.



from Luận văn 1080 http://bit.ly/2Il3zjK
via gqrds

No comments:

Post a Comment