Monday, February 18, 2019

Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng http://bit.ly/2TU0w3j

Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là một bộ phận có tính đặc thù nằm trong cộng đồng DN, do đó Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng cũng phải đặt trong khuôn khổ Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với hệ thống DN nói chung và nói rộng hơn là Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng về kinh tế

1.Khái niệm doanh nghiệp nhà nước

Khái niệm DNNN đã được đưa ra khá nhiều. Luật DN năm 2005 của Việt Nam định nghĩa: DNNN là DN trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ [73].

Theo Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân tập II (2002) của trường Đại học kinh tế Quốc dân (KTQD): DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước  đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu KT – XH do Nhà nước giao [91].

Như vậy, DNNN phân biệt với các DN khác trước hết và cơ bản là ở sở hữu: ai là người đầu tư vốn chủ yếu để thành lập và hoạt động? Điều này sẽ quyết định mục tiêu của DNNN.

Xét về mặt vốn góp, DNNN là DN trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Điều đó có nghĩa là: hoặc Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ của DN, hoặc Nhà nước giữ cổ phần chi phối.

Xét về mục tiêu, nói chung tất cả các nước trên thế giới ít nhiều đều có DNNN với mức độ vai trò có thể khác nhau, nhưng ở bất cứ nước nào,  DNNN cũng là một công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội (KT-XH) của Nhà nước. Nhà nước sử dụng các DNNN vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế mà Nhà nước thấy rằng, những nhiệm vụ đó là cần cho Nhà nước trong việc thực hiện một ý đồ nào đó [45]. Ví dụ: nhiệm vụ kinh tế để phục vụ QP hoặc để thực hiện chương trình ổn định sự phân bố dân cư; nhiệm vụ cung cấp những loại sản phẩm công mà các thành phần kinh tế tư nhân không muốn hoặc không có khả năng thực hiện để giải quyết nhu cầu tiêu dùng và sản xuất cho cộng đồng, góp phần duy trì sự ổn định và phát  triển xã hội. Ở Việt Nam, bên cạnh các ý nghĩa đó, các DNNN còn là bộ phận quan trọng của nền kinh tế mà nhờ đó làm cho kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo; bảo đảm duy trì và phát triển các đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa.

2. Khái niệm doanh nghiệp quân đội và doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Có thể hiểu DNQP là DNNN trực tiếp phục vụ QPAN hoặc kết hợp kinh tế với QPAN, được tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật DN năm 2005 sửa đổi và bổ sung năm 2009 và quy định riêng của Chính phủ.[74]

Hoặc: DNQP là DNNN hoạt động trong quân đội, do BQP hoặc các cấp trực thuộc BQP trực tiếp thành lập và quản lý để thực hiện các hoạt động kinh tế và nhiệm vụ QP theo pháp luật và các quy định của BQP.[25]

Tuy có một số khái niệm về DNQP không hoàn toàn giống nhau, nhưng các khái niệm đều thống nhất ở mấy điểm: (i) DNQP thuộc sở hữu nhà nước và BQP là đại diện chủ sở hữu; (ii) DNQP nhằm thực hiện nhiệm vụ kinh tế và nhiệm vụ QP do Nhà nước giao; (iii) Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng do BQP hoặc các cấp trực thuộc BQP thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của pháp luật như bất kì một DN làm kinh tế nào, đồng thời nó cũng hoạt động theo quy định của BQP.

Tuỳ theo tính chất và mức độ phục vụ cho QP, DNQP được chia thành hai loại:

Doanh nghiệp quốc phòng an ninh là DNNN được thành lập để trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ mang tính ổn định, thường xuyên trong những lĩnh vực, địa bàn trực tiếp phục vụ quốc phòng an ninh và bảo đảm bí mật quốc gia, do Nhà nước đặt hàng hoặc giao kế hoạch. [18]
DN QPAN còn gọi là DN thuần túy QP, gồm các DN công nghiệp QP và các DN đóng trên các địa bàn trọng yếu về QPAN. Tiêu chí xác định DN QPAN là: (i) Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thành  lập hoặc tổ chức lại theo quy định của pháp luật; (ii) Được Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch ổn định, thường xuyên sản xuất, cung ứng sản phẩm/ dịch vụ trực tiếp phục vụ QPAN hoặc được giao thực hiện nhiệm vụ QPAN;

(iii) Người lao động được hỗ trợ tiền lương khi mất việc làm.

Doanh nghiệp kinh tế quốc phòng là DNNN kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ QP và kinh tế, vừa có chức năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ công phục vụ QP, vừa có chức năng SXKD nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Có thể nói Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nằm giữa hai loại hình DN QPAN và DN kinh doanh thông thường trên thị trường

Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

3. Vai trò của doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Tùy điều kiện của mỗi nước, mà Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có thể tồn tại hoặc không bên cạnh các DN chuyên sản xuất công nghiệp Quốc phòng (CNQP) hoặc trực tiếp phục vụ QPAN. Ở Việt Nam, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đóng vai trò quan trọng trong nền KTQD và trong hệ thống QP của đất nước. Thật vậy:

Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là cơ sở kinh tế của Nhà nước hoạt động trong quân đội, có chức năng sản xuất và cung ứng sản phẩm/ dịch vụ công phục vụ QPAN của đất nước; đây là những loại sản phẩm mà các thành phần kinh tế tư nhân không muốn làm hoặc không có khả năng làm. Với chức năng trên, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng góp phần xây dựng quân đội chính quy và từng bước hiện đại, xây dựng nền QP vững chắc trong thời chiến cũng như thời bình.
Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng ngoài nhiệm vụ phục vụ QPAN, còn trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ phục vụ thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội; đóng góp vào ngân sách nhà nước (NSNN), tham gia xuất khẩu, từng bước mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài.
Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là nơi tạo việc làm cho xã hội, góp phần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, giúp người lao động có thu nhập và cuộc sống ổn định.
Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là một tổ chức thuộc quân đội nên nó luôn luôn trong tư  thế sẵn sàng chiến đấu và có thể được huy động khi cần thiết để trở thành một đơn vị trong đội hình chiến đấu của quân đội.
Các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, đặc biệt là DN đứng chân trên địa bàn chiến lược, song song với việc thực hiện nhiệm vụ SXKD phải thực hiện nhiệm vụ giữ vững QPAN, chính trị, tạo thế phòng thủ, thực hiện phân bố lại cơ cấu kinh tế và dân cư, xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn đóng quân.
Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng vừa là một công cụ quản lý của Nhà nước, vừa là một bộ máy làm nhiệm vụ kinh tế của quân đội, góp phần làm cho kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền KTQD, bảo đảm duy trì và phát triển sức mạnh vững chắc cho quân đội.
Với những vai trò quan trọng như vậy, phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là nhiệm vụ có tính chiến lược trong đường lối kinh tế và QP của Việt Nam cũng như của một số nước trên thế giới.

4. Đặc trưng của doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Ngoài những đặc điểm chung, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có một số đặc trưng sau:

4.1 Về sản phẩm

Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thuộc hệ thống QP, có nhiệm vụ cung cấp các sản phẩm/dịch vụ công phục vụ QP theo hợp đồng cung ứng sản phẩm. Mặc dù có thể không mang lại hiệu quả kinh tế cho DN nhưng do tầm quan trọng của các sản phẩm đó đối với QP nên DN được BQP chỉ định và giao chỉ tiêu kế hoạch sản lượng cung ứng hàng năm, không phải đấu thầu, không phải cạnh tranh để tiêu thụ sản phẩm, được duyệt giá theo quy định và phần lớn đều được bù đắp chi phí. Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng không thể từ chối sản xuất những sản phẩm công có liên quan chặt chẽ đến nhiệm vụ QPAN mà Nhà nước đã chỉ định cho dù lợi nhuận không cao; trong khi đó DN “dân sự” có quyền lựa chọn không SX sản phẩm nào đó nếu xét thấy việc sản xuất đó là khó khăn và sản phẩm không có hiệu quả  kinh tế cao.

Bên cạnh đó, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được thực hiện SXKD bổ sung nhằm hỗ trợ nhiệm vụ QP và phát huy công suất, hiệu quả sử dụng tài sản nhà nước giao sau khi đã hoàn thành việc sản xuất, cung ứng sản phẩm trực tiếp phục vụ QP, hoặc thực hiện nhiệm vụ QP được giao. Các sản phẩm, dịch vụ kinh doanh tất nhiên nhằm mục tiêu lợi nhuận và phải theo cơ chế cạnh tranh như các DN khác. Trong các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng ở Việt Nam hiện nay, sản xuất sản phẩm, dịch vụ phục vụ QP thường chiếm tỉ trọng ít hơn so với các loại sản phẩm, dịch vụ kinh doanh trên thị trường do NSNN đầu tư cho mua sắm đặt hàng QP của Nhà nước còn khó khăn.

Việc cung cấp đồng thời hai loại sản phẩm như trên là điểm khác biệt của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng so với DN ngoài quân đội. Nó vừa là lợi thế vừa là khó khăn cho Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Lợi thế vì hai nhiệm vụ đó bổ sung và kết hợp với nhau, từ đó DN có thể tận dụng năng lực sản xuất một cách hiệu quả hơn. Khó khăn ở chỗ nhiệm vụ phục vụ QP và nhiệm vụ kinh doanh chưa được tách bạch rõ ràng, khó có thể tính đúng, tính đủ các chi phí sản xuất sản phẩm. Trong nhiều trường hợp, do yêu cầu phải duy trì năng lực thường xuyên cho QP để sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết, nên Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có thể phải chấp nhận mức SXKD thấp hơn so với các nguồn lực và năng lực có thể huy động được.

4.2 Về sở hữu

Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thuộc sở hữu nhà nước với các hình thức:

DN 100% vốn nhà nước. Danh mục DN thuộc diện này do Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc ủy quyền cho Bộ trưởng BQP quyết định trong từng thời kì.
Công ty cổ phần, được hình thành do chuyển đổi những DN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn điều lệ sang loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, trong đó Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối.
Phần vốn sở hữu nhà nước là phần vốn góp được đầu tư từ nguồn NSNN và nguồn vốn khác của Nhà nước. BQP là đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với công ty cổ phần do mình quyết định thành lập và được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền thực hiện một số quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước. BQP thực hiện quyền chủ sở hữu vốn nhà nước tại các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo các nguyên tắc: 1) Thực hiện quyền chủ sở hữu với vai trò là người đầu tư vốn; 2) Bảo toàn và phát triển vốn nhà nước; 3) Tách biệt chức năng thực hiện các quyền chủ sở hữu với chức năng Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng; 4) Tách biệt thực hiện quyền chủ sở hữu với quyền chủ động kinh doanh của DN.

Với tư cách chủ sở hữu, Nhà nước có quyền quyết định sứ mệnh và chiến lược phát triển cũng như việc sử dụng vốn nhà nước của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

4.3 Về các quy luật chi phối hoạt động của doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng chịu tác động đồng thời của hai hệ thống quy luật kinh tế và quy luật quân sự. Là DN hoạt động kinh doanh, các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng chịu sự chi phối của quy luật kinh tế thị trường như mọi loại hình DN khác. Là DN thuộc hệ thống QP, các DN này còn chịu sự chi phối của quy luật quân sự, quy luật chiến tranh. Điểm đặc thù này là khó khăn đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng: thứ nhất, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng mặc dù làm kinh tế nhưng vẫn là lực lượng dự bị của QP, được thành lập, bố trí trước hết theo yêu cầu của QP (chứ không phải hoàn toàn theo yêu cầu thị trường); và khi cần thiết nó phải trở thành các đơn vị binh đoàn, các đơn vị kĩ thuật, hậu cần trong đội hình chiến đấu của các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng. Thứ hai, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đặc biệt là các DN đóng chân trên địa bàn chiến lược (biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa..) khó  khăn hơn trong hoạt động kinh doanh và nhất là tiếp cận thị trường, hơn nữa còn phải tham gia giải quyết các vấn đề xã hội như: chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lại dân cư, xoá đói giảm nghèo, bảo đảm điện, nước, đường sá, trường học, trạm y tế, cứu hộ cho nhân dân khi có thiên tai, cho dù các nhiệm vụ đó không mang lại hiệu quả kinh tế cho DN.

Song điểm đặc thù này cũng tạo ra lợi thế nhất định cho Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, đó  là phong cách làm việc quân đội: tổ chức và kiểm soát chặt chẽ, kỷ luật “sắt”, tinh thần đồng đội, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, tính tập trung thống nhất cao, kĩ năng ra quyết định nhanh… Điều này tạo môi trường văn hóa thuận lợi cho Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng trong việc đạt mục tiêu và nếu có phát sinh tiêu cực thì có thể sớm phát hiện được [63]. Tất nhiên phong cách mệnh lệnh, tính nguyên tắc, tính tập trung cao kiểu quân đội khi áp dụng trong kinh doanh không phải lúc nào cũng hiệu quả, thậm chí đôi khi làm giảm tính tự chủ, linh hoạt của DN trước những biến động nhanh chóng của thị trường.

4.4 Về tài chính

Có một số đặc thù trong cơ cấu tài chính của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Vốn ban đầu của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng do NSNN và ngân sách QP cấp; hàng năm DN còn được cấp vốn bổ sung tuỳ theo nhiệm vụ kế hoạch QP được giao và việc hoàn thành nhiệm vụ của năm trước. Ngoài vốn ban đầu và vốn bổ sung do ngân sách cấp, DN còn có vốn tự có nhờ hoạt động kinh doanh của mình.

Vốn và tài sản mà BQP cấp cho DN trước hết để thực hiện nhiệm vụ phục vụ QP nên bao giờ cũng được ưu tiên và DN có thể tận dụng các nguồn đó để kinh doanh. Tuy nhiên một khi còn dựa dẫm vào vốn nhà nước sẽ khiến DN không chủ động huy động từ các nguồn khác. Vốn và tài sản nhà nước giao cho Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phải được quản lý theo pháp luật về kinh tế bởi chúng cũng được sử dụng để kinh doanh, đồng thời cũng được quản lý theo pháp luật về quân sự, theo cơ chế hành chính- quân sự. Như vậy trong một số trường hợp khó có thể phân định rạch ròi giữa “tài sản kinh doanh” và “tài sản quân sự” trong việc sử dụng, từ đó cũng khó để quản lý chúng.[53]

4.5. Sự chi phối và hỗ trợ của Nhà nước

Sự chi phối và hỗ trợ của Nhà nước đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đều ở mức độ cao hơn so với DN khác, được thể hiện qua các công cụ chủ yếu sau:

Quyền sở hữu nhà nước
BQP là đại diện chủ sở hữu của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Với vai trò đó, BQP sẽ phải thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

Đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng mà Nhà nước sở hữu 100% vốn, các quyền đó bao gồm: 1) Quyết định thành lập, tổ chức lại, chuyển đối hình thức sở hữu, giải thể DN; 2) Quyết định mức vốn điều lệ ban đầu và điều chỉnh vốn điều lệ

trong quá trình hoạt động của DN; 3) Quyết định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển, các kế hoạch trung và dài hạn của DN; 4) Quyết định quy chế tài chính của DN; 5) Quyết định cơ cấu tổ chức quản lý DN; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý chủ chốt của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Theo NP 31/2005/NP-CP thì Bộ trưởng BQP quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật tổng giám đốc, giám đốc; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật phó tổng giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng theo đề nghị của tổng giám đốc, giám đốc công ty. [18]

Đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là công ty cổ phần, mặc dù Nhà nước giữ cổ phần  chi phối (trên 50% tổng số cổ phần) nhưng quyền của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu chỉ giới hạn trong khuôn khổ phần vốn góp. Chính phủ không tự mình thực hiện các quyền đó, mà ủy quyền cho BQP và phân cấp cho các Tổng cục, Quân khu, Quân chủng, hội đồng quản trị (HPQT) thực hiện quyền chủ sở hữu của Nhà nước phù hợp với loại hình Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

Pháp luật chung và pháp luật quân sự
Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật, chịu sự chi phối và điều chỉnh chặt chẽ của hệ thống pháp luật như đối với mọi loại hình DN.

Để hướng dẫn thực hiện các Luật còn có các Nghị định, Quyết định, Chỉ thị của Chính phủ, Thông tư, các Bộ, ngành có liên quan đến Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) quản lý các hoạt động của DN. Theo pháp luật hiện hành, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật DN năm 2005 sửa đổi và bổ sung năm 2009 và quy định riêng của Chính phủ. Ngoài ra Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng còn chịu chi phối của hệ thống pháp luật quân sự, sự điều chỉnh của các thể chế liên quan đến QP.

Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được thành lập và phân cấp quản lý theo hệ thống dọc từ BQP trở xuống. Vì vậy các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng chịu sự ràng buộc chặt chẽ của Quân đội về tổ chức và nhiệm vụ; phải chấp hành những quy định của BQP và chịu sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Quân uỷ trung ương.

Chính sách nhà nước và các quy định riêng của BQP
Với vai trò là công cụ Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, hệ thống chính sách có tác động rất quan trọng đến Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nhằm thực hiện các mục tiêu nhất định:

– Chính sách định hướng hành vi và tạo khuôn khổ hoạt động cho Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, chẳng hạn định hướng huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực  để phục vụ nhiệm vụ QPAN, yêu cầu kết hợp kinh tế với QP, hướng tới những mục tiêu chung về kinh tế, chính trị, QP của đất nước.

– Chính sách điều tiết những mất cân đối, những hành vi không phù hợp của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng cũng như của các chủ thể trên thị trường. Ngoài ra Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng còn chịu sự kiểm soát bởi một số quy định riêng của BQP, chẳng hạn bị cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhạy cảm mà DN dân sự có thể được làm.

– Chính sách là công cụ hỗ trợ, khuyến khích sự phát triển của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Do yêu cầu phân bố lực lượng sản xuất phục vụ cho nhiệm vụ  QPAN cũng như yêu cầu kết hợp QPAN với kinh tế, nên phần lớn các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được bố trí trên địa bàn các tỉnh trung du, miền núi, vùng biên giới, hải đảo xa xôi, thường là nơi mật độ dân cư thấp, trình độ dân trí chưa cao, cơ sở hạ tầng yếu kém, theo đó DN bị thiệt thòi về chi phí vận chuyển, khả năng tiếp cận thông tin, cơ hội phát triển thị trường nguồn nhân lực. Vì vậy cần có một số chính sách hỗ trợ để tạo sự công bằng, khuyến khích Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nâng cao năng lực cạnh tranh.

– Về trợ cấp, Nhà nước cung cấp các khoản trợ cấp, hay chi trả cho các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng sản xuất các mặt hàng trực tiếp phục vụ QP và một số sản phẩm đầu vào thiết yếu trong nền KTQD (điện, xăng dầu, sắt thép, …). Nhà nước còn tài trợ cho những Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng bố trí tại vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo, biên giới, hoặc nằm trong khu công nghiệp, khu chế xuất để làm nòng cốt, định hướng và khai phá những lĩnh vực mới cần có được tạo cơ sở ban đầu dẫn dắt các DN khác. [68]

Có nhiều chính sách, trong đó các chính sách tác động mạnh nhất đến hoạt động của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là các chính sách sản phẩm, chính sách tài chính,  tín dụng, đầu tư. (Các chính sách này sẽ được đề cập kĩ hơn trong tiết 1.2.4).

Hợp đồng cung ứng sản phẩm phục vụ quốc phòng an ninh
Danh mục sản phẩm phục vụ nhiệm vụ QPAN do Nhà nước quy định. Các sản phẩm phục vụ nhiệm vụ QP được thực hiện theo phương thức: Nhà nước đặt hàng hoặc giao kế hoạch sản xuất cho Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thông qua hợp đồng cung ứng sản phẩm, trong đó xác định rõ yêu cầu về chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả, thời hạn cung cấp sản phẩm mà DN có trách nhiệm sản xuất và cung cấp cho QP. Và Nhà nước là người mua số lượng lớn sản phẩm dịch vụ công phục vụ QP. [28]

5. Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

5.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là một bộ phận có tính đặc thù nằm trong cộng đồng DN, do đó Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng cũng phải đặt trong khuôn khổ Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với hệ thống DN nói chung và nói rộng hơn là Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng về kinh tế. Hiện nay ngay cả khái niệm Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng về kinh tế là thuật ngữ được nhắc đến rất nhiều trong các tài liệu, giáo trình, song cũng chưa có một khái niệm thống nhất. Trong luận án này, tác giả dựa vào khái niệm Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng về kinh tế, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN nói chung và những đặc trưng của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, từ đó đưa ra khái niệm Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo một cách tiếp cận phù hợp với nền kinh tế thị trường toàn cầu hoá và đối tượng quản lý.

5.1.1 Cách tiếp cận

Có nhiều cách tiếp cận khái niệm Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, nhưng theo quan điểm hiện đại thì trong bất cứ nền kinh tế thị trường nào, quan hệ giữa cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng và DN cũng cần được xây dựng theo hướng không chỉ là quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, mà còn là quan hệ đối tác, hỗ trợ lẫn nhau để phát triển. Theo quan điểm này thì Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng vừa là đối tượng vừa là khách hàng của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Điều đó có nghĩa là, Nhà nước muốn quản lý được các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thì phải: (i) xác định rõ sứ mệnh của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng; (ii) hiểu về sự vận hành của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng trong nền kinh tế thị trường;

(iii) hiểu mục tiêu của khách hàng (tức Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng) muốn gì?; (iv) xác định Nhà nước nên làm gì để tạo điều kiện cho các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thực hiện được sứ mệnh của mình?

Như vậy nghiên cứu Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đòi hỏi phải làm rõ ba lực lượng có liên quan:

Thứ nhất, đối tượng quản lý: hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Phải làm rõ mục đích, mục tiêu, đặc điểm và vai trò của DN là gì?

Thứ hai, chủ thể quản lý: bộ máy Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Phải làm rõ: Nhà nước quản lý các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nhằm mục tiêu gì? Nhà nước quản lý Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nghĩa là làm gì? (nội dung của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng).

Thứ ba, môi trường- thị trường. Xem xét các chức năng Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phải đặt trong bối cảnh môi trường biến động để làm rõ các yếu tố môi trường có tác động như thế nào đến hoạt động của DN cũng như hoạt động Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng?

5.1.2 Khái niệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung

Hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau về Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN.

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, DN là đối tượng quan trọng nhất của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng về kinh tế nên Nhà nước phải quản lý chặt ngay từ khi cấp phép và trong toàn bộ quá trình hoạt động của DN nhằm bảo đảm khả năng điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo vệ những lợi ích công cộng quan trọng và giảm thiểu những tác động tiêu cực của DN. Song nhiều ý kiến cho rằng, nếu quản lý như vậy sẽ can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của DN, cản trở sự phát triển của DN.[48]

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, xã hội quản lý DN là hiệu quả nhất, Nhà nước chỉ quản lý tối thiểu, nghĩa là quản lý thông qua việc tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho DN. Nếu Nhà nước kiểm soát quá chặt đối với DN sẽ dẫn đến tình trạng các cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đặt ra các quy định quản lý đối với DN theo kiểu “hành là chính”. Thậm chí có quan điểm thái quá khi cho rằng không cần Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN, quản lý là việc của DN, bởi vì các quy định Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng chỉ làm tăng thêm chi phí cho xã hội. Thực chất, đây là quan điểm phiến diện và sai lầm, bởi nếu thiếu các quy định, điều tiết của Nhà nước thì cái giá phải trả cho những thiệt hại không chỉ về mặt xã hội mà cả về kinh tế là rất lớn. Hơn nữa sự cần thiết của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN hiện nay xuất phát từ lợi ích cả hai phía – chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.[42]

Vấn đề là ở chỗ, Nhà nước làm sao vừa kiểm soát được DN, vừa không hạn chế sự phát triển của DN, ngược lại, tạo điều kiện cho sự phát triển của DN. Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phải theo kịp và vì sự phát triển của DN, phải phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa.

Giáo trình Quản lý học KTQD của trường Đại học KTQD cho rằng Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN là khâu cơ bản trong quản lý kinh tế (QLKT); đó là sự tác động có chủ đích, có tổ chức và bằng pháp quyền nhà nước lên các DN và vì mục tiêu phát triển KT-XH của đất nước. [90]

Tổng hợp và kế thừa có chọn lọc một số quan điểm, luận án đưa ra khái niệm: Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN là quá trình tác động của Nhà nước lên DN, bảo đảm cho DN sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, tiềm năng và cơ hội để kinh doanh có hiệu quả, nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH.

5.1.3 Khái niệm quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DNQP nhưng theo tác giả luận án tìm hiểu thì chưa có công trình nào đưa ra khái niệm Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Vì vậy ở luận án này, theo cách tiếp cận đã trình bày (mục 1.2.1.1) và dựa trên khái niệm Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN (mục 1.2.1.2), tác giả đưa ra khái niệm Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng:

Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là sự tác động của Nhà nước lên các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, thông qua quá trình hoạch định, tổ chức, chỉ đạo và kiểm soát hoạt động của DN, tạo ra môi trường thuận lợi sao cho DN thực hiện được các sứ mệnh của mình với hiệu lực, hiệu quả cao một cách bền vững, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và QP của đất nước trong điều kiện biến động của môi trường trong nước và quốc tế.

Khái niệm nêu trên bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây:

Mục tiêu của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, đó là tăng trưởng và ổn định kinh tế; giữ vững QPAN; phát triển bền vững.
Đối tượng   quản lý là các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.
Chủ thể Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, theo nghĩa rộng đó là bộ máy Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng gồm nhiều cơ quan quản lý các lĩnh vực, các ngành khác nhau của nền KTQD; theo nghĩa hẹp đó là BQP. Chính phủ thống nhất Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nhưng BQP chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành khác thực hiện Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Như vậy chủ thể Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đa dạng hơn so với các DN ngoài QP.
Nội dung Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng xét theo quá trình quản lý, gồm các chức năng hoạch định, tổ chức, điều hành và kiểm soát hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

5.2.2. Mục tiêu và tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

5.2.2.1 Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng hướng tới mục tiêu tổng quát là tăng trưởng và ổn định kinh tế, giữ vững QPAN, phát triển bền vững.

Hướng tới những mục tiêu chung đó, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có các mục tiêu cụ thể đặc trưng như sau:

(1) Phát triển bền vững các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng:

Duy trì và nâng cao năng lực sản xuất QP, bảo đảm sản xuất sản phẩm dịch vụ công phục vụ QP, góp phần nâng cao sức chiến đấu của quân đội.

Sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu khi có chiến tranh, góp phần tạo nên thế bố trí lực lượng sản xuất theo lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược có ý nghĩa QP, góp phần quan trọng vào mục tiêu ổn định, phát triển KT-XH của đất nước.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, tạo  ra sản phẩm, dịch vụ phục vụ nhu cầu thị trường và xuất khẩu; tạo lợi nhuận và đóng góp cho NSNN, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.

(2) Các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng hoạt động đúng định hướng, đúng pháp luật:

– Xác định đúng sứ mệnh, tầm nhìn chiến lược, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

– Xây dựng được hệ thống chính sách, quy định phù hợp với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

– Thiết lập được khuôn khổ pháp luật cho Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

– Xác định mô hình tổ chức SXKD hợp lý cho các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

– Kiểm soát được sự phát triển của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng , bảo đảm các DN hoạt động đúng định hướng phát triển kinh tế, xã hội và quốc phòng của đất nước.

(3) Các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng hoạt động hiệu quả

– Tạo lập được môi trường và các điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

– Hiệu quả kinh tế-xã hội của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng: kinh doanh có lãi trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, đóng góp được cho NSNN, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.

– Cân bằng lợi ích của các loại hình DN và xã hội.

5.2.2.2 Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Mục đích đánh giá
Đánh giá hoạt động Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là một nội dung rất quan trọng cần được tiến hành một cách thường xuyên và có cơ sở khoa học, nhằm trả lời các câu hỏi như: Có phải chúng ta đang làm đúng hay không? Chúng ta đang làm những điều gì đúng? Chúng ta có thể học được gì từ những bài học kinh nghiệm?

Đánh giá việc thực hiện và kết quả thực hiện của quá trình Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối  với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là một trong những điều kiện tiên quyết để hoàn thiện, đổi mới Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, bởi vì “chúng ta không thể hoàn thiện những gì mà chúng ta không xác định được”, hoặc “chúng ta không thể quản lý được cái mà chúng ta không thể xác định được”. Đánh giá giúp nâng cao năng lực của bộ máy Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, làm cho sự can thiệp của bộ máy quản lý trở nên hiệu lực và hiệu quả hơn. Mục tiêu đánh giá Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nhằm làm rõ các vấn đề:

– Xác định những điều phù hợp và không phù hợp, những sai lệch trong quá trình quản lý;

– Điều chỉnh các sai lệch nhằm bảo đảm thực hiện được các mục tiêu đề ra đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng;

– Nêu lên những bài học, đề xuất giải pháp hoặc kiến nghị nhằm hoàn thiện hoặc đổi mới đối với các yếu tố (mục tiêu, nguồn lực, công cụ…) và các nội dung quản lý không còn phù hợp.

Các tiêu chí cơ bản đánh giá Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng
Để đánh giá Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, luận án áp dụng mô hình các tiêu chí đánh giá Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được Ngân hàng Phát triển châu Á đề ra và nhiều nước trên thế giới hiện đang sử dụng [56]. Từ đó, luận án xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng như sau:

Tính hiệu lực. Một cách chung nhất, hiệu lực Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thể hiện khả năng tác động của Nhà nước đến Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng và sự chấp hành của DN với tư cách  là đối tượng quản lý. Theo nghĩa rộng, hiệu lực Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thể hiện ở việc: (i) Nhà nước mà trực tiếp là Bộ QP xác định đúng mục đích, mục tiêu quản lý Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng và thực hiện được mục đích, mục tiêu đó;
(ii) Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thực hiện nghiêm túc kế hoạch, chính sách và pháp luật của Nhà nước đối với DN. Theo nghĩa hẹp, hiệu lực Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thường được đánh giá bằng cách so sánh kết quả thực tế Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đã đạt được với mục tiêu quản lý đã đề ra.

Tính hiệu quả. Hiệu quả Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được đánh giá bằng cách so sánh kết quả thực tế mà Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với các DN đã đạt được
với chi phí đã bỏ ra để có kết quả đó. Hiệu quả Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là cao khi hoạt động Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng hoàn thành các mục tiêu quản lý đề ra với chi phí thấp nhất; hoặc Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đạt được kết quả cao nhất với chi phí nhất định về các nguồn lực. Vì hiệu quả của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng khó có thể đo lường trực tiếp và định lượng được, nên hiệu quả của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có thể được đánh giá một cách gián tiếp thông qua hiệu quả hoạt động của DN. Một điểm cần lưu ý khi đánh giá hiệu quả Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, đó là Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng còn phải thực hiện nhiệm vụ phục vụ QP, khác với DN dân sự chỉ có nhiệm vụ kinh doanh đơn thuần. Do vậy hiệu quả của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phải tính đến cả việc hoàn thành nhiệm vụ QPAN.

Tính phù hợp của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thể hiện: (i) Mục tiêu Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có phục vụ cho mục tiêu bậc cao hơn không, tức là có góp phần tăng trưởng và ổn định kinh tế, xã hội, có góp phần giữ vững QPAN và phát triển bền vững hay không; (ii) Mục tiêu Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có phù hợp với quan điểm, chiến lược và chính sách phát triển KT XH của Nhà nước không.
Tính bền vững của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thể hiện: (i) Những ảnh hưởng tích cực của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng mang lại cho DN là ổn định, dài lâu; (ii) Đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các chủ thể DN. Nghĩa là trong điều kiện như nhau, các DN có được đối xử như nhau không? (Ví dụ vay vốn; ưu đãi thuế; sử dụng đất đai và tài sản; nghĩa vụ nộp thuế và nghĩa vụ xã hội …)? Có bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể có liên quan? Có dẫn đến tình trạng chênh lệch, bất bình đẳng trong phát triển không?
Đánh giá theo những tiêu chí nêu trên không dễ dàng vì trên thực tế không phải mọi ảnh hưởng đều có thể lượng hoá hay tiền tệ hoá để đo lường được. Song một kết quả đánh giá chính xác sẽ là một thông tin hữu ích cho cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng trong quá trình quản lý, cũng như cho chính hoạt động của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

5.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đặc thù đối với doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Nội dung Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được xác định dựa trên các cơ sở khoa học: Thứ nhất, có thể có nhiều cách tiếp cận quản lý, nhưng luận án này sử dụng cách tiếp cận theo quá trình quản lý để xem xét các nội dung Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Thứ hai, Nhà nước là chủ sở hữu của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng và BQP là đại diện chủ sở hữu. Các nội dung Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng bao hàm hai vai trò, đó là Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng với tư cách công quyền quốc gia và Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng với tư cách là chủ sở hữu một phần (hoặc toàn bộ) vốn liếng, tài sản của Nhà nước tại Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Thứ ba, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng chịu sự quản lý của nhiều chủ thể Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng về kinh tế, nhưng chủ thể trực tiếp là BQP. Thứ tư, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có đặc thù nhưng về cơ bản vẫn phải thống nhất với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng  đối với DN nói chung trong nền kinh tế thị trường.

Từ những căn cứ nêu trên, nội dung Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có một số điểm đặc thù so với DN ngoài quân đội và bao gồm:

5.2.3.1 Hoạch định sự phát triển của các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Pó là việc xác định sứ mệnh, tầm nhìn chiến lược, chiến lược,  quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng dựa trên sự phân tích cơ hội  và thách thức từ môi trường, phân tích tiềm năng, lợi thế về kinh tế và QP của quốc gia, ngành kinh tế, vùng lãnh thổ, địa phương. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phải thỏa mãn các yêu cầu về chính trị, kinh tế, an ninh, QP của đất nước.

Hệ thống kế hoạch nhà nước về phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thể hiện ý đồ, mục tiêu của Nhà nước về sự phát triển của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng và các kế hoạch hành động để thực hiện mục tiêu. Bao gồm các loại kế hoạch sau:

Sứ mệnh và tầm nhìn chiến lược về phát triển các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.
Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng mang trên vai hai sứ mệnh: sứ mệnh chính trị (phục vụ nhiệm vụ QP) và sứ mệnh kinh tế (kinh doanh có lãi). Mục đích làm kinh tế của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng Việt Nam do Quân ủy Trung ương xác định là “phục vụ cho QP và phát triển KT-XH của đất nước” [36]. Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là biểu hiện cụ thể chủ trương kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP – AN của Đảng ta.

Xác định tầm nhìn chiến lược về phát triển DN chính là định dạng hình ảnh và viễn cảnh của các DN mà Nhà nước muốn đạt được trong tương lai nhằm thực hiện các sứ mệnh chính trị và kinh tế [4]. Nhưng để Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thực hiện được sứ mệnh đó một cách có hiệu quả, Nhà nước phải tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Trong tương lai, khi NSNN và tiềm lực KTQP đủ mạnh, quân đội đạt tới trình độ chính quy, hiện đại và chuyên nghiệp, thì Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có thể sẽ không trực thuộc BQP quản lý, mà hoạt động như các loại hình DN khác.

Chiến lược phát triển các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Là hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu dài hạn về phát triển hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, các giải pháp chủ yếu được lựa chọn trên cơ sở huy động và sử dụng tối ưu các lợi thế nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Chiến lược phát triển các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là cơ sở để xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo ngành, lĩnh vực kinh tế và vùng lãnh thổ [48]. Đây là công cụ quan trọng để Nhà nước phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và chiến lược QP của đất nước.
Quy hoạch phát triển hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Là tổng thể các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn lực để thực hiện mục tiêu phát triển hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo không gian và thời gian. Quy hoạch phát triển hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng khi được Nhà nước và BQP phê duyệt là căn cứ pháp lý để quyết định thành lập và bố trí không gian các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nhằm bảo đảm sự cân bằng hợp lý giữa phát triển kinh tế với QPAN, bảo đảm sự phát triển nhanh chóng, ổn định, có trật tự và hòa nhập với môi trường của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.
Quy hoạch phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng không thể chạy theo DN mà cần phải dựa vào lợi ích lâu dài của quốc gia và nhiệm vụ QP, chú ý đến đặc điểm KTQP của loại hình DN này. Xét thuần túy về mặt kinh tế thì nên bố trí DN ở khu vực có lợi thế về địa lý và hạ tầng cơ sở, thuận lợi cho hoạt động SXKD như gần nguồn khai thác nguyên liệu cho sản xuất; giao thông, thương mại, dịch vụ thuận tiện. Xét về thế trận QP lại có yêu cầu về vị trí phòng thủ, bố trí DN theo nhu cầu phục vụ QP [52]. Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng cũng nên đóng chân ở những vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa hay vùng lãnh thổ có vị trí quan trọng về QP.

Kế hoạch trung hạn (thường là kế hoạch 5 năm) để cụ thể hóa các mục tiêu, giải pháp được lựa chọn trong chiến lược phát triển các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.
Chương trình mục tiêu là một hình thức kế hoạch được BQP áp dụng phổ biến đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, trong đó xác định đồng bộ các mục tiêu, các chính sách, các bước cần tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu KTQP nhất định mang tính trọn gói của Nhà nước và thường gắn với các ngân sách cần thiết.
Kế hoạch hàng năm đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Là kế hoạch điều hành của BQP nhằm thực hiện kế hoạch 5 năm về phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Chức năng của kế hoạch này là phân phối các nguồn vật tư và tài chính nhằm bảo đảm hoạt động của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, từng bước lượng hóa và điều chỉnh các nhiệm vụ hàng năm của kế hoạch 5 năm có tính đến tình hình kinh tế, QP hiện tại. Việc điều chỉnh những nhiệm vụ hàng năm không được làm ảnh hưởng lớn đến những mục tiêu cuối cùng của kế hoạch 5 năm về phát triển DN.[90]
Hệ thống kế hoạch nhà nước về phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nêu trên có quan hệ mật thiết với hệ thống kế hoạch nhà nước về phát triển DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Hệ thống kế hoạch đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có hai điểm đặc thù: (i) Có hai loại kế hoạch tương ứng để thực hiện hai nhiệm vụ là phục vụ QP và làm kinh tế, trong đó mức độ can thiệp của BQP đối với kế hoạch sản xuất phục vụ QP tất nhiên là nhiều và sâu hơn kế hoạch kinh doanh (ii) Hệ thống kế hoạch nhà nước về phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, được quyết định bởi BQP phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền lập ra, chứ không phải là kế hoạch của một Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng riêng lẻ do DN lập ra. Chiến lược phát triển hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng khác chiến lược phát triển của một DN, song chiến lược của một DN phải được xây dựng theo chiến lược phát triển hệ thống DN.

5.2.3.2 Xây dựng và hoàn thiện các chính sách, quy định

Như các loại hình DN khác, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng chịu sự tác động bởi các chính sách, quy định của Nhà nước đối với DN nói chung. Pặc biệt Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng còn chịu sự chi phối bởi các chính sách, quy định riêng để quản lý các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, đó là nhiệm vụ chính trị- quân sự, hành chính- quân sự đối với DN. Các chính sách, quy định đó có thể được ban hành bởi Chính phủ, các Bộ thực hiện chức năng QLKT và BQP là cơ quan chủ quản của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Việc ban hành các chính sách, quy định quản lý của Nhà nước nói chung và BQP nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc tạo ra môi trường và điều tiết hoạt động của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Tuy nhiên, nếu ban hành quá nhiều quy định, hoặc chính sách, quy định hay thay đổi, cho dù với mục đích và ý đồ tốt, vẫn có thể làm cản trở hoạt động SXKD của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Tại Nghị định số 104/2008/NP- CP ngày 16/9/2008, Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn về Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng các dịch vụ công, trong đó BQP được ban hành các chính sách, tiêu chuẩn, quy trình, quy chuẩn, trình tự, thủ tục, định mức kinh tế – kĩ thuật đối với các hoạt động tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc lĩnh vực QP [19].

Các chính sách, quy định chủ yếu đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng gồm:

Chính sách, quy định về sản phẩm/dịch vụ
Sản phẩm của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng gồm hai loại là sản phẩm phục vụ thị trường và sản phẩm phục vụ QP. Chính sách đối với hai loại sản phẩm đó có sự khác nhau:

– Đối với những sản phẩm kinh doanh để bán ở thị trường trong nước và xuất khẩu, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phải tự quyết định trên cơ sở nghiên cứu thị trường và năng lực của DN: sản xuất sản phẩm gì, số lượng bao nhiêu, bán cho ai, giá cả thế nào? Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh doanh sản phẩm này ngoài việc thu thuế và tạo môi trường cạnh tranh một cách bình đẳng như đối với các DN kinh doanh trên thị trường. Chính sách của Nhà nước đối với loại sản phẩm này là khuyến khích và tạo điều kiện cho DN nhưng theo nguyên tắc thị trường. Chẳng hạn cho vay vốn với lãi suất nhà nước quy định, hỗ trợ về công nghệ, về marketing, cung cấp các dịch vụ pháp lý, v.v.

– Đối với những sản phẩm phục vụ nhiệm vụ QP, DN được hưởng những ưu tiên về chính sách để sản xuất loại sản phẩm này. Pó là những ưu tiên của Nhà nước về cấp phát các đầu vào cho sản xuất và mua toàn bộ sản phẩm đầu ra. Cơ chế đặt hàng, giao kế hoạch, giá hoặc phí sản xuất, cung ứng sản phẩm/ dịch vụ được thực hiện theo quy định của pháp luật và BQP.

Chính sách, quy định về tài chính
Căn cứ vào nhiệm vụ của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng mà Nhà nước quyết định chính  sách tài chính đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm phục vụ QP nhưng cũng đòi hỏi DN phải thực hiện hạch toán. Xu hướng là chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ, sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện các sản phẩm/ dịch vụ phục vụ QP.

Mục tiêu của chính sách tài chính đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là mở rộng khả năng hoạt động mạnh mẽ và có hiệu quả cao của các DN, khuyến khích các DN phát triển SXKD, nhất là trong những ngành mà Nhà nước muốn phát triển. Mặt khác còn góp phần huy động nguồn thu cho NSNN, phục vụ mục tiêu phát triển KT- XH.

Chính sách tài chính đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng gồm các chính sách bộ phận chủ yếu sau:

– Chính sách vốn cho Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng: Nhà nước áp dụng chính sách này theo hướng giảm tỉ trọng vốn ngân sách cấp ban đầu và cấp bổ sung, tăng tỉ trọng các nguồn vốn tự có và vốn huy động khác; tăng cường hiệu quả sử dụng vốn; hỗ trợ phát triển tài chính Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

– Chính sách thuế đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được áp dụng chung như đối với các loại hình DN khác theo hướng bình đẳng và hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm mục tiêu nuôi dưỡng nguồn thu và khuyến khích DN SXKD có hiệu quả. Tuy nhiên, theo quy định chung đối với DN, Nhà nước cũng có thể sử dụng ưu đãi về thuế và các chi phí (điện, nước, thuê đất …) đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nhất là DN nhỏ và vừa hoạt động trong các ngành, lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích và ưu tiên phát triển, chẳng hạn các DN trong ngành công nghiệp non trẻ, DN sử dụng công nghệ cao và DN có chế tạo thiết bị quân sự, các DN đóng trên địa bàn có vị trí trọng yếu về QP, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn phải thực hiện cả các nhiệm vụ chính trị xã hội và QPAN.

– Chính sách giá đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo hướng Nhà nước xóa mọi hình thức bao cấp qua giá, thực hiện thị trường hóa cho phần lớn hàng hóa và dịch vụ, trừ một số mặt hàng thiết yếu (như thóc, gạo, điện, xăng dầu, giấy viết) được Nhà nước quy định giá chuẩn hoặc khung giá và tiếp tục trợ giá một số sản phẩm, dịch vụ. Đối với SPKD thì DN chủ động quyết định giá trên cơ sở thị trường. Vận dụng cơ chế giá thị trường đòi hỏi các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phải tính toán phương án SXKD, tiết kiệm chi phí để giảm giá thành sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh. Riêng đối với sản phẩm, dịch vụ công phục vụ QP thì áp dụng cơ chế định giá, nghĩa là Nhà nước duyệt giá theo quy định trên cơ sở tính đúng, tính đủ các chi phí, nếu lỗ thì Nhà nước bù; Nhà nước thực hiện bao tiêu toàn bộ các sản phẩm công phục vụ QP.

Chính sách tín dụng
Công cụ chủ yếu của chính sách tín dụng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là vốn tín dụng và lãi suất tín dụng [41].

– Công cụ vốn tín dụng cho Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được sử dụng thông qua các giải pháp chủ yếu như đối với tất cả các DN khác: (i) Huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong tất cả các thành phần kinh tế để cho các DN vay với lãi suất nhất định do Ngân hàng trung ương quy định lãi suất cơ bản; (ii) Cải cách thủ tục hành chính, các điều kiện về thế chấp, tín chấp theo hướng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo thuận lợi cho DN tiếp cận các nguồn vốn vay; (iii) Thực hiện tái cấp vốn cho các ngân hàng để các ngân hàng này mở rộng cho vay đối với DN. Tất nhiên Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có thể chọn ngân hàng (không nhất thiết phải là ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) quân đội) để mở tài khoản tiền gửi cũng như để vay tín dụng.

– Công cụ lãi suất tín dụng đối với DN được điều hành một cách linh hoạt tùy mục tiêu ưu tiên trong thời điểm đó là tăng trưởng kinh tế hay kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Ngoài ra, đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có các dự án của BQP cần khuyến khích đầu tư thì DN cũng được hưởng lãi suất ưu đãi.

Chính sách đầu tư
Chính sách đầu tư của Nhà nước đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được áp dụng theo hướng tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật cho DN, đầu tư xây dựng cơ bản, phát triển công nghệ và sản xuất các sản phẩm công phục vụ nhiệm vụ QP. Những ưu tiên đầu tư của Nhà nước gồm: các dự án cần Nhà nước khuyến khích đầu tư như dự án phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng tại các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo hoặc có vị trí quan trọng về QP; các hoạt động nghiên cứu và phát triển; các DN sử dụng công nghệ cao trong sản xuất kinh tế và QP, các ngành nghề kinh tế mà Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có lợi thế. Đối với một số  loại sản phẩm, dịch vụ “lưỡng dụng”, nghĩa là phục vụ QP nhưng thị trường cũng có nhu cầu lớn như cơ khí chế tạo, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, xây dựng cơ bản, BQP thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư về công nghệ, xúc tiến thương mại (XTTM), giúp DN vừa giữ gìn năng lực sản xuất QP, vừa có thể sản xuất các mặt hàng kinh tế có sức cạnh tranh cao, góp phần thúc đẩy thị trường cạnh tranh lành mạnh.

Các chính sách nêu trên cần được phối hợp trong quá trình quản lý Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Cục Kinh tế BQP là cơ quan tham mưu giúp việc và chịu trách nhiệm trực tiếp đối với công tác điều hành, xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giữa các chủ thể có liên quan nhằm huy động sức mạnh tối đa các lực lượng để phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, gồm phối hợp giữa các DN với nhau, giữa DN với Nhà nước, với các tổ chức chính phủ và phi chính phủ (như các Hiệp hội, các tổ chức từ thiện..), giữa các cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có liên quan đến quản lý Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Các chính sách quy định để quản lý Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng và có  liên quan đến Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đều được thực hiện thông qua hệ thống văn bản  QPPL (gọi chung là văn bản QPPL đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng). Hệ thống văn bản QPPL này là những quy định mang tính bắt buộc hoặc là những hướng dẫn mà  DN KTQP có trách nhiệm tuân thủ. Điều này không những để điều chỉnh hành vi của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, bảo đảm cạnh tranh có trật tự và công bằng trong nền kinh tế thị trường, mà còn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính  Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

Hệ thống văn bản QPPL đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng cần được ban hành đồng bộ và ổn định. Tránh tình trạng Luật đã ban hành những văn bản hướng dẫn không kịp thời, hoặc tình trạng các quy định thay đổi thường xuyên đến mức Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng mất cả khả năng lập kế hoạch và ra quyết định trong SXKD.

5.2.3.3 Quyết định mô hình tổ chức và cấp phép đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Trong nền kinh tế thị trường, chủ sở hữu DN có quyền lựa chọn loại hình tổ chức kinh doanh mà họ có khả năng thực hiện tốt nhất mục tiêu, thu được lợi ích (kinh tế và phi kinh tế) cao nhất cho mình, phù hợp với quy định của pháp luật. Vai trò của Nhà nước ở đây không phải là áp đặt các chủ sở hữu phải khuôn cứng vào một loại hình DN cố định, mà là tạo ra khung khổ pháp lý và điều kiện áp dụng mỗi loại hình để các chủ sở hữu lựa chọn thích ứng với điều kiện và mong muốn của họ. Trên cơ sở đó, Nhà nước  thực hiện hành vi pháp lý là công nhận loại hình tổ chức DN vào hành lang pháp lý đã quy định, nhưng không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của DN.

Đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có thẩm quyền trong hệ thống QP ra quyết định về mặt pháp lý công nhận việc thành lập/giải thể, sáp nhập/chia tách tổ chức của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, trong đó xác định rõ: hình thức sở hữu; địa vị pháp lý; chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của DN.

Trên cơ sở các quy định của Chính phủ về tổ chức sắp xếp, cơ cấu lại DNNN, BQP là người chỉ đạo việc sắp xếp, tổ chức lại Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Với mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả của DN, tận dụng và sử dụng tối ưu cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có, cải thiện đời sống người lao động, việc tổ chức sắp xếp lại Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được BQP tiến hành theo nguyên tắc kiên quyết, kịp thời, thận trọng và vận dụng sáng tạo; hướng tới hình thành các DN mạnh tập trung vào các ngành mà Quân đội có thế mạnh; sáp nhập, hợp nhất trên cơ sở phát huy thế mạnh của DN này, khắc phục điểm yếu của DN khác; hạn chế số DN phải phá sản hay giải thể, duy trì được việc làm cho người lao động. Các mô hình tổ chức được Nhà nước áp dụng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là:

Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên
Công ty TNHH một thành viên là DN do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. [74]

Gần đây Việt Nam có xu hướng chuyển đổi các DNNN theo mô hình công ty TNHH một thành viên. Đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, Nhà nước chỉ áp dụng mô hình công ty TNHH một thành viên là tổ chức, chủ sở hữu của nó là BQP với 100% vốn nhà nước. Theo quy định của Luật này, cơ cấu tổ chức quản lý của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo mô hình công ty TNHH một thành viên sẽ gồm: 1) Đại diện chủ sở hữu là BQP; 2) hội đồng thành viên (HPTV) gồm tất cả người đại diện theo ủy quyền; 3) Chủ tịch công ty; 4) Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; 5) Kiểm soát viên.

Đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng hoạt động theo mô hình này, các chức danh nêu trên đều do BQP ra quyết định bổ nhiệm, bãi nhiệm sau khi đã được các cơ quan chức năng của BQP thẩm định và tham mưu cho BQP.

Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một loại hình DN được hình thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông. Bộ  máy tổ chức các công ty cổ phần quân đội cũng được cơ cấu theo quy định của luật pháp và điều lệ công ty nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch và hoạt động có  hiệu quả. Đồng thời để bảo đảm sự quản lý của BQP thì các nhân sự cấp cao trong bộ máy đó (chủ tịch HPQT, Tổng giám đốc) do BQP hay cấp trực thuộc BQP quyết định.

Nhận thức
Hiện nay, Việt Nam chưa có một văn bản luật riêng để quy định về tổ chức và hoạt động của các tập đoàn kinh tế, ngay trong Luật DN năm 2005 (đã được sửa đổi và bổ sung năm 2009) cũng chưa có định nghĩa riêng về tập đoàn kinh tế, do đó xung quanh vấn đề này còn rất nhiều tranh luận. Tuy nhiên, Luật DN năm 2005 đã có một số quy định đề cập đến tập đoàn kinh tế. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 102/2010/NP-CP hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật DN, trong đó xác định: tập đoàn kinh tế bao gồm nhóm công ty có quy mô lớn có tư cách pháp nhân độc lập, được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp DN trở lên dưới hình thức công ty mẹ – công ty con.[22]

Đặc điểm chung của các tập đoàn kinh tế ở các nước trên thế giới là: 1) Nguyên tắc tự nguyện tham gia của nhiều DN thành viên để hình thành Tập đoàn; 2) Tập đoàn kinh tế là tổ hợp các DN liên kết với nhau chủ yếu về đầu tư vốn; 3) Tập đoàn kinh tế được tổ chức theo nhiều mô hình, với nhiều tầng nấc khác nhau. Công ty mẹ trong tập đoàn có hai chức năng, một là trực tiếp SXKD; hai là đầu tư tài chính vào các DN nhằm mục đích lợi nhuận; 4) Tập đoàn kinh tế thường kinh doanh đa ngành nghề, có thị trường rất lớn; 5) Tập đoàn không có tư cách pháp nhân, trong khi các DN thành viên đều là những pháp nhân độc lập. Do đó tập đoàn kinh tế không phải đăng ký kinh doanh (PKKD) và chỉ nắm một số hoạt động quan trọng, chủ yếu. [54]

Hiện tại trong số các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng ở Việt Nam thì mới có một tập đoàn đó là Viettel.

Theo nguyên tắc không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của DN, nên với tất cả các mô hình nêu trên, BQP không trực tiếp xây dựng bộ máy quản lý nội bộ Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, mà chỉ giúp các DN thiết lập mô hình tổ chức và cơ chế quản lý đối với hoạt động SXKD của DN nhằm thực hiện được chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển DN. Trên cơ sở mô hình quản lý có tính nguyên tắc do pháp luật quy định, các cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có nhiệm vụ tư vấn cho các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng trong việc thiết kế bộ máy quản trị DN.

Về việc cấp phép PKKD: Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là DNNN và do đó thủ tục PKKD cũng phải tuân thủ các quy định chung của Nhà nước về thành lập DN và cấp phép PKKD. Với quan điểm đổi mới, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho DN gia nhập thị trường và thực hiện các hoạt động đầu tư, Việt Nam đã có một số đổi mới trong Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng về cấp phép và PKKD như: 1) Gắn thủ tục PKKD với thủ tục đăng ký đầu tư. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận PKKD; 2) Rút ngắn hơn thời hạn cấp giấy chứng nhận PKKD. “Cơ quan PKKD có trách nhiệm xem xét hồ sơ PKKD và cấp Giấy chứng nhận PKKD trong thời hạn mười ngày làm việc,   kể từ ngày nhận hồ sơ”. [73]

Riêng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, ngoài cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận PKKD cho DN thì nó còn phải kèm theo quyết định cho phép của BQP, hoặc một cơ quan trong hệ thống QP được BQP ủy quyền (ví dụ Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Cục Kinh tế BQP …). Như vậy thủ tục thành lập và PKKD của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là chặt chẽ và khó khăn hơn so  với DNNN ngoài quân đội và DN dân doanh.

5.2.3.4 Tham gia quản lý vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

DNNN nói chung, trong đó có Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được Nhà nước cấp vốn và tài sản, do vậy Nhà nước phải quản lý chặt chẽ phần vốn và tài sản đó, bao gồm quản lý vốn và tài sản đầu tư tại DN trong toàn bộ quá trình huy động, phân bổ, sử dụng chúng.

Mỗi nước có thể có cơ chế về quản lý vốn và tài sản nhà nước tại các DN khác nhau, nhưng đều nhằm phân bổ, sử dụng vốn và tài sản đúng mục đích, có hiệu quả, tránh gây thất thoát, lãng phí.

Đây là một lĩnh vực phức tạp, nhất là đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng do nhiều chủ thể tham gia quản lý, do vậy phải làm rõ các nội dung sau: 1) Các nguồn vốn và cơ cấu các nguồn vốn tại Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng; 2) Trách nhiệm của DN, của BQP trong  quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước; 3) Cơ chế đầu tư và mô hình quản lý vốn nhà nước; 4) Giám sát của BQP và các cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng trong quá trình sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại DN; 5) Thẩm quyền quyết định của HPTV hay HPQT công ty; 6) Tỷ lệ đầu tư vốn ra ngoài DN, đặc biệt là các lĩnh vực được cho là nhạy cảm như chứng khoán, bất động sản …

5.2.3.5. Kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Mục đích của kiểm soát nhà nước đối với các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nhằm bảo đảm để Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng hoạt động đúng pháp luật, đúng định hướng, bảo vệ lợi ích hợp pháp và hợp lý cho cả DN và xã hội, bảo đảm hiệu quả KT-XH. Thông qua hoạt động kiểm soát, các cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có thể kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, cũng như của các cá nhân và tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật và BQP.
Căn cứ để kiểm soát là: 1) Chế độ chính sách văn bản QPPL liên quan đến quản lý Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, đặc biệt là quản lý kế hoạch, quản lý đầu tư và vốn nhà nước, quản lý nguồn nhân lực; 2) Các mục tiêu Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được cụ thể hóa thành các chỉ tiêu về sản xuất QP và SXKD.
Nội dung kiểm soát nhà nước đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng toàn diện trên nhiều lĩnh vực, nhưng tập trung vào một số nội dung chủ yếu là:
– Kiểm soát sự phát triển của các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo định hướng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của BQP;

– Kiểm soát đầu tư và tài chính, đặc biệt là kiểm soát các nguồn vốn và tài sản nhà nước tại Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Đây là một nội dung kiểm soát rất quan trọng nhằm bảo toàn và phát triển vốn nhà nước, hạn chế tình trạng sử dụng lãng phí, tham ô, tham nhũng trong các cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng và trong các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

– Kiểm soát việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của BQP tại các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Cụ thể là các nội dung kiểm soát chủ yếu sau:

+ Đánh giá lại theo định kì, kiểm soát và xử lý vi phạm trong việc chấp hành các điều kiện kinh doanh thuộc thẩm quyền Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng;

+ Kiểm soát việc kê khai thuế, nộp thuế cho NSNN và nộp các khoản cho ngân sách QP;

+ Kiểm tra, thanh tra chấp hành Luật Lao động và chính sách của Nhà nước đối với người lao động;

+ Kiểm soát nhập khẩu và sử dụng công nghệ, tránh nhập công nghệ lạc hậu và công nghệ làm huỷ hoại môi trường;

+ Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm về ô nhiễm môi trường, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn vệ lao động;

+ Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong việc thực hiện tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, dịch vụ của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo hệ thống tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam.

+ Kiểm soát thực hiện nhiệm vụ, các vấn đề về năng lực và đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

Các hình thức kiểm soát nhà nước đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng gồm:
Giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước và của Viện Kiểm sát, Tòa án trong và ngoài quân đội nhằm chấn chỉnh những lệch lạc trái pháp luật, sai mục tiêu.

Kiểm tra của Chính phủ, BQP và các cơ quan chức năng trong bộ máy Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, gồm: (i) kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung; (ii) kiểm tra chức năng; (iii) kiểm tra nội bộ.

Thanh tra của Tổng thanh tra nhà nước; thanh tra nhà nước chuyên ngành; thanh tra của BQP; thanh tra nội bộ Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

Kiểm toán nhà nước nhằm xác định tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của DN trong việc sử dụng kinh phí do NSNN cấp. Ngoài ra Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng cũng áp dụng kiểm toán nội bộ của BQP và kiểm toán nội bộ trong DN.

5.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

5.2.4.1 Xu thế chung của thế giới

Các xu thế chung của thế giới có ảnh hưởng mạnh mẽ tới Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN trong đó có Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, đem lại cả cơ hội lẫn thách thức cho hoạt động Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN, đó là:

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, tự do hóa thương mại đòi hỏi xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thủ tục thương mại trở nên đơn giản và ngày càng thống nhất trên phạm vi toàn thế giới, làm tăng cơ hội cho các nước đang phát triển được tiếp cận các nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, mở rộng quan hệ giao thương và khả năng hội nhập vào thị trường thế giới. Lúc này Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phải khai thông, phát triển quan hệ kinh tế quốc tế và tạo điều  kiện thuận lợi để DN tận dụng được các cơ hội đó.

Quá trình hội nhập đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo hướng ban hành các chính sách, quy định phù hợp với cam kết quốc tế; BQP phải hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng mở rộng thị trường, liên doanh, liên kết, hợp tác quốc tế, xuất nhập khẩu hàng hoá; đồng thời, theo dõi, kiểm soát quá trình hội nhập để kịp thời ngăn chặn những tiêu cực và bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, QP.

Thứ hai, sự liên kết giữa thị trường trong nước với thị trường thế giới thành một thị trường thống nhất buộc mọi nền kinh tế phải mở cửa thị trường. Nhiệm vụ này trước hết thuộc về vai trò của Nhà nước, đòi hỏi Nhà nước phải cải cách hành chính nhằm tạo ra môi trường thể chế tốt với các thủ tục hành chính minh bạch, đơn giản, thuận lợi cho DN.

Thứ ba, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế còn làm tăng mức độ gay gắt của cạnh tranh, đòi hỏi Nhà nước phải xác định lợi thế so sánh của mình trong chuỗi phân công lao động quốc tế và hỗ trợ DN nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), các đối tác sẽ tiếp tục giám sát chặt chẽ và có những đòi hỏi mạnh mẽ để Nhà nước phải thực hiện theo đúng những tiêu chí của WTO.

Sự thay đổi vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường [38], [102]
Trong thời đại ngày nay, vai trò của Nhà nước đang có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước vẫn đóng vai trò trung tâm trong phát triển KT-XH của các quốc gia, nhưng không phải với tư cách là người trực tiếp tạo ra sự tăng trưởng, mà là một đối tác, là “bà đỡ” – người tạo điều kiện cho sự tăng trưởng đó. Như vậy quan hệ giữa Nhà nước và DN không chỉ là quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, mà còn là quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ công và khách hàng sử dụng dịch vụ công đó. Dịch vụ công mà Nhà nước có trách nhiệm cung cấp cho DN trước hết là dịch vụ công thuần túy như hệ thống luật pháp, thể chế, chính sách công, ổn định kinh tế vĩ mô, quyền sở hữu tài sản, QPAN và trật tự xã hội.

Xu hướng thế giới về sự thay đổi vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường toàn cầu, tất yếu sẽ ảnh hưởng đến Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Pó là:

– Nhà nước chuyển từ vai trò người “chèo thuyền” thành người “lái thuyền”. Nghĩa là Nhà nước chỉ định hướng cho DN hoạt động chứ không làm thay DN. Nhà nước chỉ làm những gì mà các DN không làm hoặc làm không hiệu quả.

– Phi tập trung hóa quyền lực, tăng cường và mở rộng phân cấp trong Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN; phân quyền nhiều hơn cho các cấp chính quyền địa phương, lắng nghe tiếng nói của DN tham gia vào quá trình Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

– Đưa cạnh tranh vào cung cấp dịch vụ công thông qua xã hội hóa, mở rộng quan hệ đối tác công – tư trong cung cấp dịch vụ công (các hình thức PPP). Như vậy Nhà nước không còn là người duy nhất và chủ yếu cung cấp dịch vụ công cho xã hội, nhưng Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong cung cấp dịch vụ công.

– Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng hướng tới kết quả đầu ra chứ không quá chú trọng đến đầu vào. Quá trình Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng theo kết quả đầu ra được xác định từ việc xem xét mục tiêu mong muốn là gì, đầu ra là gì, từ đó tính toán xác định các yếu tố đầu vào cần thiết để lập dự toán ngân sách và phân bổ nguồn lực cho hiệu quả. Ngân sách được quyết định bởi giá cả thanh toán cho kết quả đầu ra mà DN cung ứng. Theo phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra, DN được cơ quan Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng trao nhiều quyền tự chủ trong quản lý chi của DN, từ đó nâng cao tính chủ động của DN trong nền kinh tế thị trường đầy biến động.

– Thúc đẩy sự thay đổi thông qua thị trường. Nhà nước xóa bỏ bao cấp, xóa bỏ đặc quyền đối với các DNNN, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, buộc các DN phải tự thay đổi để thích nghi với cơ chế thị trường.

Xu hướng phát triển của quân đội các nước trên thế giới
Phần lớn quân đội ở các nước hiện nay không tham gia hoặc ít tham gia làm kinh tế, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ đất nước; phần lớn các nước không có DN thuộc sự quản lý của quân đội mà chỉ có DN công nghiệp quốc phòng (sản xuất vũ khí, trang thiết bị phục vụ QP..). Loại DN này cung cấp các sản phẩm/dịch vụ công thuần túy cho QP theo đơn đặt hàng của Nhà nước. Như vậy ở nhiều nước không có loại hình DN vừa làm nhiệm vụ QP vừa làm nhiệm vụ kinh tế như ở Việt Nam hiện nay.

Tại các nước có nền kinh tế chuyển đổi trong đó có Việt Nam, khi kinh tế đất nước còn khó khăn, Nhà nước và Bộ QP chủ trương tồn tại mô hình Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, thực chất là DNQP làm kinh tế để sản xuất ra của cải vật chất, góp phần nâng cao đời sống cho bộ đội, tạo việc làm cho xã hội và đóng góp vào ngân sách, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo; đồng thời tận dụng được cơ sở hạ tầng, các nguồn lực dôi dư của Quân đội.

5.2.4.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng

Quan điểm của Đảng, Nhà nước và BQP có ảnh hưởng quan trọng mang tính định hướng tới hoạt động Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Pó là:

Tiếp tục phát triển loại hình Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng
Về sự tồn tại của loại hình Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, cho đến nay trên thế giới có hai quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất – Quân đội ngoài chức năng QP vẫn có thể làm kinh tế, do vậy mà tồn tại Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.
Theo quan điểm trên, Nhà nước cho phép một bộ phận DNQP có thể làm thêm nhiệm vụ kinh tế bên cạnh nhiệm vụ phục vụ QP (gọi là Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng). Khi đó, các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng vẫn thuộc hệ thống quân đội và phải là lực lượng sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết, chẳng hạn khi xảy ra chiến tranh.

Ở những nước điều kiện kinh tế còn khó khăn, sự tồn tại của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có thể coi là hợp lý. Một số nước như Việt Nam, Trung Quốc, Nga, Cu Ba, Lào, Campuchia… hiện ủng hộ quan điểm tiếp tục phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng trong hệ thống DNNN để giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và phục vụ nhiệm vụ QP, đồng thời tận dụng được các lợi thế và nguồn lực để SXKD trên cơ sở Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phải hoàn thành nhiệm vụ chính trị phục vụ QP, qua đó góp phần tạo ra của cải vật chất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế và QP của đất nước, đem lại lợi ích cho DN và người lao động.

Gần đây theo xu hướng chung của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng vẫn là DNNN, nhưng Nhà nước có thể không sở hữu 100% vốn như trước đây, mà thực hiện CPH nhằm giảm gánh nặng cho NSNN, tăng khả năng huy động vốn và hiệu quả SXKD của DN. Như vậy các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng cũng sẽ trở thành các công ty cổ phần, các Tập đoàn hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con, trong đó Nhà nước nắm cổ phần chi phối.

Ở Việt Nam quan điểm của Đảng, Nhà nước và BQP là tiếp tục phát  triển loại hình DN này nhưng cần tái cấu trúc, tức là sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

Quan điểm thứ hai – Quân đội chỉ chuyên làm nhiệm vụ QP, không làm nhiệm vụ kinh tế, do đó không tồn tại Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng riêng của Quân đội. Các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng có thể chuyển hẳn sang nhiệm vụ kinh doanh và không thuộc BQP quản lý, thậm chí DN QPAN cũng không trực thuộc Quân đội. Khi đó sẽ chỉ có DN thuộc ngành CNQP sản xuất sản phẩm theo đơn đặt hàng, và khách hàng chủ yếu là BQP. BQP có thể mua máy bay, xe tăng, đại bác, vũ khí hay bất kì hàng hóa gì phục vụ nhu cầu QP do các DN thuộc ngành CNQP và DN thuộc các ngành khác sản xuất, cung cấp theo hợp đồng với BQP. Đây là quan điểm ở hầu hết các nước trên thế giới. Đển giữa những năm 1990 với xu hướng xã hội hóa việc cung cấp hàng hóa dịch vụ công, Nhà nước không còn là người duy nhất cung cấp dịch vụ công, mà thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia thông qua việc tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh và các chính sách trong lĩnh vực này, nhờ đó tăng khả năng tiếp cận dịch vụ công với chất lượng, giá cả và sự phục vụ tốt hơn, kể cả hàng hóa, dịch vụ phục vụ QP – một trong các loại dịch vụ công không thể thiếu mà bất kì Nhà nước nào cũng phải quan tâm.

Thái độ của Nhà nước đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng
Có nên để DNNN trong đó có Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng tiếp tục được nhận những ưu đãi từ Nhà nước hay không? Có quan điểm cho rằng Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là công cụ thực hiện nhiệm vụ phục vụ QP, đồng thời góp phần vào tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, góp phần giải quyết việc làm cho lao động trong và ngoài quân đội. Ngoài ra, DNNN trong đó có Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nên DNNN mặc nhiên được xem là xương sống của nền kinh tế. Vì vậy họ cho rằng nếu Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phá sản sẽ gây mất mát về kinh tế và QP, làm giảm sức chiến đấu của quân đội. Và cũng từ tầm nhìn như vậy mà Nhà nước nên trao cho các Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng những ưu đãi, ưu tiên nhất định. Không nên đột ngột bỏ ưu đãi đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng cổ phần hóa vì nó có ý nghĩa cả về QP và kinh tế, kể cả trong trường hợp thời gian đầu hiệu quả kinh tế còn thấp.

Nhưng quan điểm của nhiều chuyên gia Việt Nam cũng như nước ngoài cho rằng, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DNNN trong đó có Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng dành quá nhiều đặc quyền không đáng có, dễ dẫn đến sự câu kết tiêu cực giữa bộ máy Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng với bộ máy DN. Khi DNNN được trao cho những đặc quyền, ưu đãi về vốn, tài nguyên và được bảo hộ vô điều kiện, thì nó sẽ không cần tăng năng lực cạnh tranh, hiệu quả thực sự chắc chắn thấp hơn so với DN dân doanh. Thực tế Việt Nam cho thấy nếu chỉ xét về hiệu quả tài chính thì đóng góp của DNNN vào nền kinh tế và chưa xứng tầm so với đầu tư của nhà nước và các lợi thế của nó. Vì vậy tiến tới xoá bỏ các ưu đãi cho DNNN sẽ giúp môi trường kinh doanh trong sạch, bình đẳng, đồng thời phải có sự kiểm soát chặt chẽ từ bên ngoài đối với DN.

Quan điểm về vấn đề sở hữu trong mối quan hệ giữa Nhà nước, đại diện chủ sở hữu và giám đốc Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng
Về mặt sở hữu, do đặc thù của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nên ở nước ta có nhiều đầu mối thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với loại hình DN này.

Đầu năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã yêu cầu đổi mới DNNN theo hướng cơ quan hoạch định chính sách không đồng thời thực hiện chức năng chủ sở hữu DN, bởi sự mất cân đối giữa quyền lực và trách nhiệm trong DNNN đã làm nảy sinh tình trạng nơi thì can thiệp quá sâu, nơi bỏ lỏng chức năng quản lý của chủ sở hữu.

Trong Luật DN năm 2005, hai nguyên tắc về thực hiện quyền chủ sở hữu đối với DNNN đã được quy định khá rõ ràng, đó là tách biệt chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước với các chức năng khác của nhà nước và thực hiện quyền chủ sở hữu một cách tập trung, thống nhất. Cùng với quá trình CPH DN, tổng Công ty (TCT) Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước đã ra đời để thực hiện điều này. Theo đó, tổ chức này sẽ là một đơn vị tiếp nhận phần vốn nhà nước tại các DN để thực hiện quyền chủ sở hữu một cách chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả nhất. Pây có thể coi là mấu chốt quyết định quá trình tách bạch vai trò chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN ra khỏi vai trò hoạch định chính sách của các đơn vị quản lý hành chính nhà nước.

5.2.4.3. Năng lực thể chế của Nhà nước

Năng lực thể chế của Nhà nước – yếu tố quyết định hiệu lực, hiệu quả và tác động của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. Năng lực này thể hiện: (i) Hệ thống luật pháp có đầy đủ, ổn định và công bằng cho các DN hay không. Mức độ ổn định của hành lang pháp lý sẽ tạo điều kiện cho DN phát triển. Ngược lại DN sẽ gặp khó khăn khi phải đối diện với những thay đổi thường xuyên của luật pháp. (ii) Hệ thống chính sách có hợp lý không, có tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ cho DN phát triển hay không. Trong nền kinh tế thị  trường, Nhà nước có vai trò tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Nhà nước thúc đẩy và tăng sức cạnh tranh cho DN thông qua các chính sách hỗ trợ hoạt động, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và các yếu tố đầu vào cho DN; kích cầu để mở rộng và tăng dung lượng thị trường đầu ra cho DN, đồng thời trong cơ cấu chi tiêu của nền kinh tế, Nhà nước cũng là người mua với nhu cầu lớn và đa dạng, v.v.
Sự trong sạch của bộ máy và cán bộ công chức nhà nước. Đây là yếu  tố được các nước đặc biệt là các nước đang phát triển đề cập rất mạnh trong những năm gần đây. Nó có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến hoạt động Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN cũng như kết quả hoạt động của DN. Ở những nước mà nạn tham nhũng hoành hành thì Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN không thể bảo đảm tính hiệu quả và tính công bằng, nó tạo ra một môi trường kinh doanh không minh bạch và một cách hành xử xấu là “đi cửa hậu”. Tham nhũng không chỉ làm tăng chi phí giao dịch và xói mòn các nguồn lực, mà còn làm xói mòn niềm tin của nhà đầu tư vào bộ máy nhà nước, làm giảm hiệu lực Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.
Theo kết quả nghiên cứu của Ngân hàng thế giới tại một số nước đang phát triển cho thấy, có mối liên hệ trực tiếp giữa mức độ tham nhũng của một Chính phủ với kết quả tăng trưởng kinh tế do các DN tạo ra. Những nước có chỉ số tham nhũng cao phần lớn đều là những nước kinh tế chậm phát triển. Và khi mức độ tham nhũng cao thì lợi ích của sự tăng trưởng không phải đem lại cho đại đa số nhân dân mà chủ yếu rơi vào túi những DN làm ăn bất chính nhưng biết đi hối lộ và một số công chức ăn hối lộ [57], [58].

5.2.4.4 Điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước

Không chỉ khác nhau về thể chế chính trị, các quốc gia còn khác nhau về trình độ phát triển KT-XH, đặc điểm lịch sử, văn hóa và do đó có ảnh hưởng khác nhau đến Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, có thể tạo ra thuận lợi hoặc khó khăn trong Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

Điều kiện kinh tế: Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định,  thu nhập quốc dân trên đầu người cao sẽ tạo điều kiện tăng tích lũy cho nền kinh tế, giảm bớt áp lực và khó khăn cho hoạt động Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN. Ở phần lớn các nước có nền kinh tế phát triển cao thì DNQP của họ chỉ thực hiện nhiệm vụ phục vụ QPAN như: sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự, xây dựng công trình hàng không, cảng biển quân sự, v.v.. Còn ở các nước đang phát triển, điều kiện kinh tế còn khó khăn, bên cạnh DN thuần túy QP, thường tồn tại loại hình Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng nhằm tận dụng năng lực sản xuất và nguồn lực của hệ thống DNNN trong quân đội, góp phần vào sự phát triển KT-XH của đất nước. Do đặc thù đó, Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng không hoàn toàn như đối với DN QPAN, cũng không hoàn toàn như DN kinh doanh thuần túy.
Điều kiện lịch sử, văn hóa- xã hội: Trong bất cứ một quốc gia nào, đã từ lâu người ta coi văn hóa là công cụ quản lý và ngày nay các giá trị văn hóa càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Các yếu tố văn hóa xã hội như tư tưởng, thái độ ứng xử, phong cách làm việc, khả năng học hỏi và sáng tạo đều có ảnh hưởng sâu sắc trực tiếp hoặc gián tiếp đến Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.
Ở Việt Nam, trải qua quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ kinh tế và QP luôn kết hợp chặt chẽ với nhau và hỗ trợ nhau cùng phát triển như một tất yếu của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Hệ thống Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng chính là nơi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kết hợp QP và kinh tế trong thời chiến cũng như thời bình. Các cán bộ Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng cũng như cán bộ lãnh đạo Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng phần lớn đều là người lính (hoặc đã là người lính). Những đặc điểm về truyền thống văn hóa dân tộc đó chắc chắn có ảnh hưởng sâu sắc đến Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng. [3],[99]

5.2.4.5 Trình độ phát triển và năng lực quản trị trong doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Đây là các yếu tố thuộc về bản thân Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng tức là đối tượng Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, có tác động trở lại đến hoạt động của chủ thể Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng.

Trình độ phát triển của Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng thể hiện ở trình độ các nguồn lực và các hoạt động của DN như nhân lực, tài chính, máy móc thiết bị và công nghệ, uy tín, thương hiệu, văn hóa DN v.v.. Trình độ phát triển đó càng cao thì Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN càng có khả năng thành công cao.

Bộ máy quản trị trong Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng là bộ máy trực tiếp điều hành hoạt động của DN. Với bộ máy quản trị tối ưu, linh hoạt và hiệu quả sẽ là yếu tố góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với DN. Trước hết phải nói đến Ban giám đốc Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng, là những người điều hành hoạt động của DN trên cơ sở tuân thủ các ràng buộc quản lý vĩ mô và các quy luật thị trường, nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng và phát triển KT- XH của Nhà nước. Các ý đồ của Nhà nước, các mục tiêu Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng đối với Doanh Nghiệp Kinh tế Quốc Phòng được thực hiện qua các tác động của Nhà nước, nhưng nếu bộ máy quản trị DN thiếu năng lực sẽ không thể biến các mục tiêu đó thành hiện thực.

The post Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng appeared first on Luận văn 1080.

No comments:

Post a Comment