Friday, February 22, 2019

Lý luận chung về xây dựng mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng

Ngày nay thì các tập đoàn tài chính – ngân hàng phát triển theo xu hướng hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực là phổ biến nhưng luôn có một ngành, một lĩnh vực giữ vị trí mũi nhọn. Bên cạnh các đơn vị sản xuất là các tổ chức tài chính, ngân hàng và nghiên cứu ứng dụng ngày càng được chú ý hơn.

1. Lịch sử ra đời của tập đoàn tài chính – ngân hàng

Vào cuối thế kỷ 19, sau một thời kỳ phát triển kinh tế mạnh mẽ dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, nhu cầu vốn của các công ty tăng lên để mở rộng lĩnh vực hoạt động và địa bàn kinh doanh không những ở phạm vi trong nước mà còn trên thế giới. Đến cuối thế kỷ 20 thì quá trình này diễn ra mạnh mẽ, hàng loạt các tập đoàn xuyên quốc gia, hoạt động trong nhiều lĩnh vực ra đời và phát triển cho đến nay. Có thể kể đến những tập đoàn kinh tế lớn như Ford Motor, Pfizer, Siemens, Toyota Motor, IBM, … Sự hình thành các tập đoàn tài chính được diễn ra theo quy luật của thị trường và thường mang một số đặc điểm sau:

Một là, tập đoàn gồm nhiều đơn vị thành viên thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tài chính…, có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu … Phạm vi hoạt động rất rộng, thường vượt ra biên giới quốc gia, thậm chí trên khắp thế giới để trở thành những tập đoàn xuyên quốc gia, hướng tới mục tiêu toàn cầu hoá chiến lược kinh doanh nhằm đạt được những ưu thế trong cạnh tranh và nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Các tập đoàn kinh doanh đa phần được tổ chức theo mô hình “Công ty mẹ – Công ty con”.

Hai là, sự liên kết giữa các đơn vị thành viên (về tài chính, công nghệ, thị trường …) rất đa dạng, có thể là chặt chẽ hoặc không chặt chẽ nhưng trên cơ sở cùng có lợi của mỗi thành viên và của cả tập đoàn. Trong tập đoàn, công ty mẹ sở hữu lượng lớn cổ phần trong các công ty con, nắm quyền chi phối các công ty con về mặt tài chính cũng như về mặt chiến lược phát triển.

Ba là, sở hữu trong tập đoàn tài chính – ngân hàng là sở hữu hỗn hợp (nhiều chủ), nhưng công ty mẹ luôn đóng vai trò chi phối, khống chế các công ty thành viên. Các công ty con có thể hạch toán trực thuộc công ty mẹ hoặc hạch toán độc lập với tư cách pháp nhân riêng. Những công ty con có thể là những mắt xích liên quan đến nhau theo hình thức chuyên môn hoá trong một dây chuyền hoặc hoạt động trong những lĩnh vực độc lập hoàn toàn không liên quan gì với nhau.

Một đặc điểm cuối của tập đoàn tài chính – ngân hàng là nó có thể kinh doanh chuyên ngành hoặc đa ngành. Ngày nay thì các tập đoàn tài chính – ngân hàng phát triển theo xu hướng hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực là phổ biến nhưng luôn có một ngành, một lĩnh vực giữ vị trí mũi nhọn. Bên cạnh các đơn vị sản xuất là các tổ chức tài chính, ngân hàng và nghiên cứu ứng dụng ngày càng được chú ý hơn vì đó là đòn bẩy cho sự phát triển của tập đoàn.

Trong bối cảnh mà toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn thì các tập đoàn tài chính – ngân hàng tăng cường thực thi sáp nhập, thôn tính, liên minh rộng rãi và địa phương hoá kinh doanh.

Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều tập đoàn tài chính – ngân hàng khổng lồ và nổi tiếng. Dưới đây là 10 tập đoàn tài chính – ngân hàng lớn nhất theo số liệu thống kê năm 2003 về tổng tài sản. Các tập đoàn này đều là những ngân hàng xuyên quốc gia với chi nhánh đặt tại nhiều quốc gia khác nhau.

2. Khái niệm về tập đoàn tài chính –ngân hàng

Khái niệm về tập đoàn tài chính – ngân hàng ở các nước và khu vực khác nhau cũng có những nét khác nhau, cụ thể:

Ở các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU): Họ gọi tập đoàn tài chính – ngân hàng là những tập đoàn liên kết phải thoả mãn điều kiện sau:

– Liên kết đó có ít nhất một công ty thực hiện các hoạt động về ngân hàng hoặc chứng khoán và ít nhất một công ty thực hiện hoạt động về bảo hiểm.

– Công ty thực hiện các hoạt động ngân hàng, chứng khoán hay bảo hiểm là hạt nhân của tập đoàn, một cách cụ thể hơn, nghĩa là tỷ lệ tổng tài sản thuộc lĩnh vực tài chính này trong bảng cân đối của tập đoàn phải lớn hơn 40%. Trong mỗi lĩnh vực tài chính (ngân hàng/chứng khoán hay bảo hiểm) tỷ lệ trung bình về tài sản của nó so với tổng tài sản trong tập đoàn phải lớn hơn 10% hoặc tổng tài sản của công ty nhỏ nhất kinh doanh trong lĩnh vực tài chính phải lớn hơn 6 tỷ Euro.

Ở Mỹ, người ta gọi những tập đoàn tài chính – ngân hàng là: “Financial holding company” nó đơn thuần chỉ là một tổ chức mà trong đó một công ty được nắm giữ những công ty khác cung cấp đa dạng những dịch vụ tài chính. Thực tế không yêu cầu chỉ là mô hình công ty mẹ con mà còn là công ty thực hiện đồng thời các hoạt động kinh doanh như ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.

Luật tài chính của Nhật quy định về tập đoàn tài chính – ngân hàng cũng tương đối giống với những quy định về tập đoàn ở Mỹ. Trong những cuộc hội thảo quốc tế cũng đã đi đến thống nhất, tập đoàn tài chính – ngân hàng được hiểu là một liên kết và phải đáp ứng hai yêu cầu sau:

Một là, một liên kết bao gồm ít nhất hai trong số các lĩnh vực tài chính và ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán.

Hai là, liên kết đó có cốt lõi kinh doanh là tài chính như ngân hàng, chứng khoán và/hoặc là bảo hiểm.

Đến nay chưa có định nghĩa hay khái niệm chính thức, thống nhất về tập đoàn tài chính – ngân hàng. Song trên cơ sở nguyên tắc hoạt động của tập đoàn tài chính – ngân hàng có thể hiểu tập đoàn tài chính – ngân hàng là một tổ chức bao gồm hai hay nhiều định chế tài chính được liên kết lại với nhau. Đó là sự liên kết giữa nhiều chủ thể khác nhau hoạt động trên các lĩnh vực tài chính nhằm hướng tới một hay nhiều mục tiêu nhất định mà thường là tối đa hoá lợi nhuận, mở rộng lĩnh vực kinh doanh, đầu tư và tăng cường khả năng cạnh tranh khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định. Từ những đặc điểm và nguyên tắc cơ bản của tập đoàn tài chính – ngân hàng, các nhà nghiên cứu đưa ra một khái niệm về tập đoàn tài chính – ngân hàng: tập đoàn tài chính – ngân hàng trƣớc hết phải là một tập đoàn tài chính mà ở đó hoạt động ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của tập đoàn tài chính – ngân hàng và nó chỉ hình thành ở những điều kiện nhất định của sự phát triển kinh tế.

3. Đặc trưng cơ bản của tập đoàn tài chính – ngân hàng

3.1  Bộ máy tổ chức chặt chẽ

Đặc trưng đầu tiên là các tập đoàn tài chính – ngân hàng sự kết hợp chặt chẽ của nhiều công ty trong một tổ chức thống nhất. Tập đoàn tài chính – ngân hàng được tổ chức theo ngành dọc, đứng đầu là chủ tịch tập đoàn, sau đó là giám đốc phụ trách các khối.

Phần lớn các tập đoàn tài chính – ngân hàng do các ngân hàng đứng đầu. Điều này phản ánh động lực ngày càng gia tăng của ngân hàng trong việc tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh khác do việc giảm sút lợi nhuận từ hoạt động cho vay và các dịch vụ ngân hàng truyền thống. Những lợi thế về vốn cũng giải thích được lý do tại sao các tập đoàn do ngân hàng đứng đầu là rất phổ biến.

Phần lớn các tập đoàn tài chính – ngân hàng do các ngân hàng đứng đầu. Điều này phản ánh động lực ngày càng gia tăng của ngân hàng trong việc tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh khác do việc giảm sút lợi nhuận từ hoạt động cho vay và các dịch vụ ngân hàng tuyền thống. Những lợi thế về vốn cũng giải thích được lý do tại sao các tập đoàn do ngân hàng đứng đầu là rất phổ biến.

Trong một số trường hợp, các công ty sở hữu trung gian được thành lập để quản lý các khu vực hoặc các vùng cụ thể. Mục đích của vấn đề này là giảm thiểu chi phí quản lý đối với các vùng lãnh thổ liền kề và quản lý các dịch vụ tài chính tương tự; hoặc giải quyết các vấn đề liên quan đến luật pháp, các chuẩn mực kế toán và thuế.

3.2  Dịch vụ đa dạng

Các hoạt động và các dịch vụ của tập đoàn tài chính – ngân hàng đang chuyển từ các hoạt động truyền thống (tập trung vào các lĩnh vực như: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) sang phương thức tập trung vào khách hàng. Theo phương thức này, tập đoàn tài chính – ngân hàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng bằng cách cung ứng tất cả các loại hình sản phẩm tài chính: cấp tín dụng, tư vấn, dịch vụ bảo hiểm, quản lý tài sản, quản lý tài chính,…

Các tập đoàn tài chính – ngân hàng tư nhân có xu hướng cung cấp một loạt các dịch vụ đặc biệt phản ánh lịch sử phát triển cũng như chiến lược quản lý của họ. Các dịch vụ này xuất phát từ mục tiêu là tập trung vào khách hàng bao gồm các công ty lớn (bán buôn) và các cá nhân (bán lẻ) hoặc là hoạt động cả trong nước và quốc tế. Nhìn chung, xu hướng này nhấn mạnh tới các đại lý bán lẻ và hoạt động kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, những dịch vụ này cũng có xu hướng biến đổi theo thời gian.

3.3 Sử dụng hình thức sáp nhập và mua lại để thành lập tập đoàn tài chính – ngân hàng

Sự thành lập và mở rộng tập đoàn tài chính – ngân hàng được thực hiện bởi các hoạt động sáp nhập và mua lại, cụ thể là ở Châu Âu và Mỹ từ những năm 90. Ví dụ: nghiên cứu của nhóm G10 đã chỉ ra rằng trong 13 quốc gia thuộc G10 cộng với Tây Ban Nha và Úc thì có tới 1.376 trong số 7.304 là các giao dịch sáp nhập và mua lại liên quan đến các tổ chức tài chính- ngân hàng là giao dịch liên ngành từ những năm 1990-1999, chiếm 20% tổng các giao dịch.

3.4 Đặc điểm theo quốc gia:

Tập đoàn tài chính- ngân hàng tại những nước khác nhau có những đặc điểm riêng biệt mang đặc trưng của quốc gia đó. Ví dụ, tại Mỹ, các tập đoàn tài chính- ngân hàng tham gia vào cả kinh doanh ngân hàng và kinh doanh chứng khoán, tuy nhiên trong lĩnh vực bảo hiểm thì phần lớn các tập đoàn tài chính- ngân hàng chỉ bán các sản phẩm bảo hiểm mà không tham gia bảo lãnh bảo hiểm. Gần đây, một số tập đoàn tài chính- ngân hàng đã bán các công ty bảo hiểm mà trước đây họ mua lại. Tại Nhật Bản, theo luật, các ngân hàng, công ty chứng khoán tham gia vào lĩnh vực của nhau thông qua các công ty con, các tập đoàn tài chính- ngân hàng thường do ngân hàng đứng đầu và không một tập đoàn nào có công ty bảo hiểm. Tại Châu Âu, từ cuối những năm 1980, xu hướng hợp nhất giữa ngân hàng và bảo hiểm hình thành một loạt tập đoàn ngân hàng bảo hiểm, đem lại lợi nhuận từ việc kinh doanh “dịch vụ toàn diện”.

4. Nguyên tắc hoạt động của tập đoàn tài chính – ngân hàng

Một tập đoàn tài chính- ngân hàng có thể hoạt động theo mô hình này hay mô hình khác, nhưng cũng cần đảm bảo một số nguyên tắc hoạt động sau:

Thứ nhất, là tối đa hoá lợi nhuận.

Thứ hai, là đảm bảo tính ổn định trong toàn hệ thống; các công ty con chủ động sử dụng vốn tự có trong sản xuất – kinh doanh, tập đoàn không có quyền can thiệp vào phần lợi nhuận thu được từ nguồn vốn này.

Thứ ba, quan hệ tài chính giữa công ty mẹ và công ty con chủ yếu là quan hệ hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty con vay vốn từ nguồn vốn chung của tập đoàn và các công ty con khác trong tập đoàn được hưởng lãi suất từ việc cho vay này theo tỷ lệ vốn góp.

Thứ tư, công ty mẹ không chỉ đóng vai trò tập trung mà còn điều hoà nguồn vốn giữa các công ty con nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, việc dịch chuyển vốn từ công ty mẹ tới công ty con và ngược lại cũng được tính lãi suất theo quy định của tập đoàn.

Thứ năm, vốn tích luỹ đóng vai trò rất quan trọng và là nguồn vốn chủ yếu trong việc tăng cường quy mô của tập đoàn.

Cuối cùng vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ ngày càng được tăng cường và giữ nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo quỹ đạo hoạt động cho các công ty con và của toàn hệ thống.

5. Các mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng

5.1. Ngân hàng đa năng

5.1.1. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng đa năng

Ngân hàng đa năng (Universal Banking), nghĩa là trong một ngân hàng bao gồm tất cả các hoạt động kinh doanh tài chính của tập đoàn.

5.1.2. Đặc điểm của ngân hàng đa năng

Ngân hàng đa năng cung cấp các dịch vụ tài chính không chỉ là ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại mà còn cả bảo hiểm. Ban điều hành trực tiếp điều hành hoạt động trong mỗi loại hình kinh doanh của ngân hàng và gián tiếp thực hiện quyền nắm giữ cổ phần tại các công ty. Mối quan hệ về vốn giữa các công ty con thì không có quy định riêng mà có thể phân phối vốn đối với từng công ty tùy theo mục đích quản lý. Do đó việc khoanh rủi ro giữa các công ty con là rất khó khăn, bên cạnh đó rủi ro của lĩnh vực này có thể kéo theo sự rủi ro của lĩnh vực khác.

5.1.3. Tính ưu việt của ngân hàng đa năng:

Ngân hàng đa năng nhờ quy mô lớn nên có thể chiếm lĩnh được thị trường, dành thế độc quyền và có khả năng cạnh tranh lành mạnh. Còn trong quá trình tập trung hoá và quốc tế hoá hệ thống ngân hàng, do cơ cấu vốn lớn và đa dạng nên ngân hàng đa năng có đủ nguồn tài chính để cung cấp những khoản tín dụng lớn hay đầu tư đổi mới công nghệ nhờ đó mà có sức cạnh tranh cao nên nguy cơ đổ vỡ của ngân hàng đa năng là rất nhỏ.

Ở Châu Âu, ngân hàng có thể kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán nhưng các nước công nghiệp lớn không cho phép bất kỳ một công ty đơn lẻ nào được kinh doanh trong cả ba lĩnh vực (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán).

5.2. Mô hình công ty mẹ – con

5.2.1. Cơ cấu tổ chức của công ty mẹ con

Mô hình công ty mẹ con (Parent –subsidiary relationship) theo đó công ty mẹ là công ty nắm cổ phần chi phối các công ty con và đóng vai trò như là hạt nhân liên kết.

5.2.2. Đặc điểm của mô hình công ty mẹ con

Các cổ đông của ngân hàng quản lý trực tiếp các ngân hàng nhưng không quản lý trực tiếp các công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán. Còn lãnh đạo các ngân hàng thì quản lý trực tiếp hoạt động của công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm. Do đó với mô hình này vốn của ngân hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm được quản lý một cách độc lập nhưng vẫn có thể xảy ra rủi ro dây chuyền. Ngân hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm nắm giữ vốn chủ sở hữu. Do đó, việc khoanh rủi ro giữa các công ty con có thể ngăn ngừa lan truyền được ở mức nhất định. Những tác động của an toàn mạng lên hoạt động của ngân hàng mẹ có thể tác động tới các công ty con.

Ở Mỹ, mô hình tập đoàn này chỉ được chấp thuận khi các ngân hàng quốc gia kinh doanh bảo hiểm hay chứng khoán. Mô hình này cũng được cho phép thực hiện ở Nhật Bản (gọi là mô hình các công ty con trong lĩnh vực cá biệt)

5.2.3. Tính ưu việt của mô hình công ty mẹ – con

Mô hình công ty mẹ – con kết hợp được nguyên tắc tập trung và phân quyền theo hướng các nhà quản lý cấp cao của tập đoàn tập trung và các quyết định mang tính chiến lược, dài hạn và quan trọng nhằm đảm bảo tối ưu hoá toàn bộ các hoạt động của tập đoàn, các quyết định điều hành kinh doanh được phân cho cấp dưới thực hiện.

Một điều cần nhấn mạnh là sự tối ưu hoá toàn bộ hoạt động của tập đoàn và các công ty thành viên được thực hiện thông qua việc huy động các nguồn lực lớn hơn để xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh một cách có hiệu quả, điều hoà các giao dịch bên trong của tập đoàn. Văn phòng và các ban chức năng của tập đoàn thực hiện chức năng nghiên cứu , xây dựng chiến lược và điều hành giao dịch nội bộ tập đoàn đã tạo ưu thế trong việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực trong tập đoàn.

Với mô hình “công ty mẹ – con”, công ty mẹ đóng vai trò quản lý chung, đặc biệt là vai trò phân phối vốn. Các tập đoàn tài chính có thể hình thành các công ty con theo quy định chung của pháp luật và quy định trong lĩnh vực hoạt động riêng. Việc thành lập như vậy có một số lợi thế, chẳng hạn như các giám đốc tập đoàn không phải chịu trách nhiệm hoạch định các chiến lược chung cho hoạt động của toàn tập đoàn. Tuy nhiên, những lợi thế như vậy bị giảm bớt trong một số mô hình công ty mẹ – công ty con khi giám đốc điều hành nằm trong cả các ban của ngân hàng và các công ty con hoạt động chính là ngân hàng.

6. Điều kiện và hình thức xây dựng tập đoàn tài chính – ngân hàng

6.1. Điều kiện thành lập

Nghiên cứu về các mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng của các nước trên thế giới, có thể thấy để trở thành một tập đoàn tài chính – ngân hàng thì các điều kiện cơ bản phải đáp ứng đó là:

6.1.1. Điều kiện từ môi trường bên ngoài

Việc xuất hiện các mô hình tổ chức mới với cách thức vận hành mới là một phạm trù lịch sử, có tính độc lập khách quan. Thực tế đã chứng minh sự can thiệp của nhà nước chỉ là điều kiện cần với ý nghĩa hỗ trợ và thúc đẩy. Tuy nhiên, nếu không có sự hỗ trợ từ phía nhà nước thì rất khó có thể có được những tập đoàn hùng mạnh. Vì vậy, vấn đề thay đổi nhận thức, quan điểm cũng như thay đổi cách tư duy, cách tiếp cận về tập đoàn tài chính – ngân hàng đi cùng với việc cải cách khuôn khổ thể chế phù hợp với các qui định, tập quán, nhất là vấn đề đổi mới mô hình quản trị phải được đặt ra trong việc xây dựng tập đoàn tài chính – ngân hàng. Việc nhà nước tạo điều kiện về thể chế và cơ chế khuyến khích các định chế tài chính đủ tiềm lực tài chính, đủ điều kiện liên kết, sáp nhập, hợp nhất, giảm thiểu các thủ tục hành chính và sự can thiệp từ phía nhà nước; xây dựng chính sách trên nguyên tắc không dùng giải pháp hành chính thuần tuý để ghép nối mà chủ yếu sử dụng các giải pháp cơ chế, chính sách để thúc đẩy đầu tư, liên kết. Đây là các nhân tố có tính định hướng lớn, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tốt nhất sự ra đời của tập đoàn tài chính – ngân hàng.

6.1.2. Điều kiện từ chính bản thân các NHTM

Các ngân hàng phải có tình trạng tài chính tốt, đáp ứng đủ năng lực về vốn, về tỷ lệ an toàn, về nợ quá hạn theo chuẩn mực quốc tế. Từ đó, các ngân hàng cần đề ra các mục tiêu mà mình cần phải vươn tới để trở nên hoàn thiện hơn như: xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn với mục tiêu kinh doanh rõ ràng trong đó xác định được sản phẩm cốt lõi của ngân hàng, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm phù hợp với trình độ công nghệ của ngân hàng, chú trọng việc hình thành công ty mẹ mạnh về vốn, khoa học công nghệ tiên tiến, có khả năng quản lý nhân lực và thị trường tốt để từ đó hình thành nên các công ty con. Bên cạnh đó, về cơ cấu tổ chức và năng lực quản trị, cần có sự phân định tính trách nhiệm phù hợp, có sự liên kết, phối hợp tốt giữa các thành viên, giữa các bộ phận lãnh đạo, trong đó quyền và nghĩa vụ được qui định một cách rõ ràng nhằm tránh sự chồng chéo và tránh sự xung đột lợi ích. Cụ thể như sau:

Quy mô vốn chủ sở hữu và tiềm lực tài chính

Vốn chủ sở hữu và tiềm lực tài chính của NHTM đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và bảo hiểm cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài. Nguồn vốn chủ sở hữu này đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản, vì vốn giúp ngân hàng trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời. Nguồn vốn chủ sở hữu và tiềm lực tài chính đủ mạnh và đủ để cấp cho các công ty chuyên doanh độc lập trong từng lĩnh vực dịch vụ tài chính cụ thể. Đây là tiền đề quan trọng đầu tiên có tính chất quyết định đến việc mở ra đa dạng các lĩnh vực kinh doanh khác nhau của tập đoàn tài chính – ngân hàng. Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ (kể cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Hơn nữa, quy mô vốn lớn mạnh sẽ giúp cho ngân hàng huy động được nhiều vốn hơn, do các khách hàng thường có quan niệm gửi tiền vào các ngân hàng lớn thì sẽ yên tâm hơn. Trên cơ sở đó, đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động kinh doanh của các công ty chuyên doanh độc lập. Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ tài chính mới của tập đoàn. Đồng thời, tiềm lực tài chính dồi dào, có điều kiện đầu tư cho những chương trình và trang thiết bị mới, hiện đại hoá công nghệ. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời của những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng. Vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài. Có nghĩa là vốn ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác.

Hệ thống thông tin và công nghệ ngân hàng phải hiện đại và phát triển Khó có thể tưởng tượng nổi một doanh nghiệp nói chung, một tập đoàn tài chính – ngân hàng hay một NHTM nói riêng kinh doanh trong môi trường luôn biến động và cạnh tranh gay gắt như ngày nay mà không cần đến thông tin. Thông tin đã trở thành vấn đề thiết yếu, không thể thiếu trong thời đại công nghệ thông tin phát triển với tốc độ nhanh và xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, bởi các lý do sau:

Thông tin là cơ sở quan trọng trong hoạch định chiến lược kinh doanh cũng như xây dựng kế hoạch tác nghiệp mang tính khả thi cao.

Thông qua thông tin phản hồi người quản lý theo dõi được tốc độ thực hiện kế hoạch, phát hiện những lệch lạc trong xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch; từ đó đưa ra những điề

Dựa vào thông tin trong quá khứ, hiện tại và các phương pháp dự đoán thích hợp, người quản lý tiên đoán được hiện tượng trong tương lai, giúp cho họ chủ động hơn trong điều hành công việc.

Trong thời đại thương mại điện tử nói riêng và công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay, thì nó được sử dụng như một nguồn lực kinh tế, một vũ khí trong môi trường cạnh tranh. Các tổ chức kinh tế nói chung, ngân hàng nói riêng phải sử dụng thông tin ngày càng nhiều để tăng năng lực, tăng hiệu quả trong hoạt động và đem lại lợi ích cho nền kinh tế cũng như cho ngân hàng.

Hiện đại hoá công nghệ: hiện đại hoá công nghệ sẽ giúp cho ngân hàng, cho tập đoàn tài chính – ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác. Ngoài ra, công nghệ hiện đại còn giúp cho ngân hàng, tập đoàn tài chính – ngân hàng, các công ty chuyên doanh trực thuộc mở rộng thêm loại hình dịch vụ cũng như thị trường hoạt động của mình.

Khả năng cung ứng dịch vụ tài chính tốt

Khả năng cung ứng dịch vụ tài chính thể hiện ở việc phục vụ kịp thời, thuận tiện, nhanh chóng, an toàn, chính xác và tính linh hoạt của dịch vụ. Muốn vậy, các ngân hàng, tập đoàn tài chính – ngân hàng phải mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả các dịch vụ tài chính hiện có, đồng thời đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng cho nền kinh tế và các kênh phân phối dịch vụ với công nghệ tiên tiến.

Các ngân hàng hay tập đoàn tài chính – ngân hàng mạnh không chỉ thể hiện ở chỗ cung ứng một khối lượng vốn tín dụng lớn, chủng loại dịch vụ tài chính đa dạng cho thị trường mà là ở chỗ phương thức cung ứng các dịch vụ tài chính như thế nào. Đối với các ngân hàng tiên tiến, tập đoàn tài chính – ngân hàng phát triển họ cung cấp các dịch vụ hoàn hảo, đa dạng với chất lượng cao cho nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Hơn nữa một NHTM, một tập đoàn tài chính – ngân hàng kinh doanh đa năng sẽ có nhiều lợi thế trong nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bởi vì:

Đa dạng hoá dịch vụ tài chính giúp ngân hàng phân tán và giảm thiểu rủi ro. Theo các dịch vụ truyền thống và cổ điển, Ngân hàng thu lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, nhưng tín dụng lại là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro và bất trắc. Vì thế, thực hiện kinh doanh nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng khác bên cạnh nghiệp vụ tín dụng sẽ giúp phân tán và giảm rủi ro.

Đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ tài chính sẽ làm tăng lợi nhuận của NHTM. Khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ NHTM sẽ sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ của mỗi ngân hàng; do vậy giảm chi phí quản lý và chi phí hoạt động, tăng lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp, cũng như cho NHTM.

Chỉ khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, ngân hàng mới cung cấp được nhiều loại dịch vụ tài chính một cách nhanh chóng, linh hoạt, có chất lượng cho khách hàng và cho nền kính tế. Hơn nữa, việc phục vụ khách hàng theo phương thức “trọn gói” bao giờ cũng ưu việt hơn phương thức riêng lẻ.

Tăng khả năng cạnh tranh của NHTM, của tập đoàn tài chính – ngân hàng trong nền kinh tế thị trường: để thu hút được nhiều khách hàng hơn, các ngân hàng phải thay đổi, cải tiến hoạt động sao cho đáp ứng kịp thời, thuận tiện các nhu cầu của khách hàng. Những ngân hàng hoạt động đơn điệu dễ bị phá sản hoặc tự đóng cửa do không dễ dàng chuyển hướng kinh doanh hay giữ cho ngân hàng luôn hoạt động ổn định.

Ngoài việc đa dạng hoá dịch vụ thì đa dạng hoá các kênh phân phối cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Đa dạng hoá các kênh phân phối sẽ giúp cho các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nhanh chóng đến tay khách hàng.

Chiến lược khách hàng phải đa dạng

Trong nền kinh tế thị trường, một công ty muốn tồn tại thì phải có hoạt động kinh doanh, để làm được điều đó thì yếu tố cần và đủ là có sự kết hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp và khách hàng. Khách hàng là nhân tố chủ yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi công ty. Một nguyên tắc mà các công ty nên biết và ghi nhớ đó là bằng mọi phương pháp phải đa dạng hóa các chiến lược phục vụ khách hàng.

Trong kinh doanh ngân hàng cũng vậy, trước điều kiện cạnh tranh vô cùng gay gắt xảy ra ngoài việc tạo được uy tín đối với khách hàng thì các ngân hàng còn phải thường xuyên thay đổi các chiến lược kinh doanh sao cho phù hợp. Đa dạng hóa các dịch vụ: cung cấp dịch vụ trực tiếp đến khách hàng, cung cấp thông qua mạng, thông qua các phương thức không dùng tiền mặt, … nhưng dù là phương thức nào thì các dịch vụ đó phải nhanh, chính xác và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng. Có như vậy thì, các tập đoàn tài chính – ngân hàng mới tồn tại và phát triển được.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng

Chúng ta đều biết ngân hàng, tập đoàn tài chính – ngân hàng thuộc ngành kinh doanh dịch vụ, vì vậy, có thể nói, chất lượng cán bộ, nhân viên ngân hàng là một yếu tố quan trọng để kiến tạo sức mạnh cạnh tranh của các NHTM. Nhân viên ngân hàng là người trực tiếp thực hiện các chiến lược kinh doanh (bao gồm cả chiến lược cạnh tranh) của các NHTM. Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên ngân hàng chính là một “hiện hữu” chủ yếu của dịch vụ. Vì vậy, với kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, nhân viên ngân hàng có thể làm tăng thêm giá trị cho dịch vụ cũng như làm giảm đi, thậm chí làm hỏng giá trị của dịch vụ. Bằng việc gây thiện cảm với khách hàng trong quá trình giao dịch, nhân viên ngân hàng đã trực tiếp tham gia quá trình xúc tiến bán dịch vụ. Đa số các ý tưởng cải tiến dịch vụ hoặc cung ứng dịch vụ được đề xuất bởi một nhân viên ngân hàng. Là lực lượng chủ yếu chuyển tải những thông tin tín hiệu từ thị trường, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà hoạch định chính sách ngân hàng. Nhân viên ngân hàng có trình độ chuyên môn cao thì sẽ làm giảm rủi ro trong các khoản vay. Ngoài ra, họ còn có khả năng thực hiện tốt vai trò tư vấn, giúp đỡ khách hàng trong việc thực hiện các dự án, phương án sản xuất kinh doanh. Tóm lại, chất lượng nhân viên ngân hàng càng cao, lợi thế cạnh tranh của ngân hàng càng lớn.

Các yếu tố khác

Vị trí, địa điểm kinh doanh và khả năng mở rộng màng lưới kinh doanh: tập đoàn tài chính – ngân hàng có địa điểm kinh doanh tốt, ở những nơi tập trung dân cư, gần những trung tâm thương mại lớn sẽ có nhiều khả năng tiếp cận với khách hàng hơn. Nếu ngân hàng đặt trụ sở ở cạnh ngân hàng khác có nhiều ưu thế hơn hoặc nơi đặt trụ sở không phù hợp thì sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, làm giảm khả năng cạnh tranh. Hoặc có khả năng mở rộng màng lưới ra nước ngoài đến các thị trường lớn, thị thường mới nổi, trung tâm tài chính.

Danh tiếng và uy tín ngân hàng: được tạo ra từ chính mức độ thoả mãn của khách hàng trong các lần giao dịch trước, từ những người quen biết, truyền miệng, từ quảng cáo… Dịch vụ ngân hàng là vô hình, khách hàng không thể thử trước dịch vụ mình định mua, vì vậy cơ sở dẫn đến quyết định giao dịch với ngân hàng của khách hàng là hoàn toàn dựa vào danh tiếng và uy tín của ngân hàng. Vì thế đây là nguồn lực vô hình có giá trị lớn lao tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho các NHTM.

Điều kiện pháp lý, đó là luật pháp cho phép Ngân hàng hay công ty bảo hiểm được thực hiện kinh doanh đa dạng các dịch vụ tài chính hay không. Hay nói cách khác, khi thành lập các công ty kinh doanh chuyên ngành, tập đoàn tài chính – ngân hàng phải được cơ quan chức năng cấp phép.

Phù hợp với xu hướng nói trên, các NHTM ở nước ta đang mở rộng hoạt động kinh doanh của mình sang nhiều dịch vụ tài chính khác nhau, như: Chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư,… Ngược lại các tập đoàn bảo hiểm, điện lực, bưu chính viễn thông, dầu khí ở nước ta đang mở rộng các hoạt động sang lĩnh vực ngân hàng. Các tập đoàn trên đang thực hiện bước đầu tiên đó là mua cổ phần, trở thành cổ đông lớn, cổ đông chiến lược của ngân hàng. Phát triển theo xu hướng hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng, cũng chính là phát triển theo hướng ngân hàng đa năng, kinh doanh tổng hợp, nhưng phải dựa trên cơ sở các tiền đề, điều kiện nhất định. Vì vậy, về cả phía các NHTM, các tập đoàn bảo hiểm,… cũng như các cơ quan quản lý cần phải thúc đẩy sự chín muồi các điều kiện cần và đủ nói trên.

6.2. Hình thức thành lập:

Hiện nay, có 7 hình thức để xây dựng các tập đoàn tài chính – ngân hàng như:

Các ngân hàng hạng trung kết hợp với nhau.

Các ngân hàng hạng lớn kết hợp với nhau.

Ngân hàng hạng lớn kết hợp với một/vài ngân hàng hạng trung.

Ngân hàng hạng lớn tự vươn lên thành tập đoàn (tăng vốn qua phát hành cổ phiếu, thu nạp các tổ chức phi ngân hàng,….

Ngân hàng hạng lớn mua một/vài ngân hàng hạng trung.

Tổ chức tài chính phi ngân hàng (có thể cả tổ chức phi tài chính) mở rộng hoạt động sang lĩnh vực ngân hàng (thành lập ngân hàng trong tập đoàn) và lĩnh vực tài chính khác (có hay không có thành lập định chế thuộc tập đoàn theo qui định của pháp luật).

M&A (Hợp nhất và sáp nhập).

Hình thức phổ biến nhất hiện nay là M&A (Hợp nhất và sáp nhập do tham vọng quản lý – Managerial ambition) và làn sóng sáp nhập hình thành các ngân hàng khổng lồ xuất hiện là nhờ hai động lực chủ yếu: Giảm sự can thiệp của nhà nước (deregulation) vào hoạt động ngân hàng; Xóa bỏ các rào cản giữa các ngân hàng, công ty bảo hiểm và công ty chứng khoán.

Tại Mỹ, thậm chí các công ty phi tài chính (non-financial companies) như tập đoàn bán lẻ Wal – Mart cũng muốn tham gia hoạt động ngân hàng bên cạnh việc hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng khổng lồ, các megabank và mô hình ngân hàng cũ trở nên lỗi thời do thay đổi cơ bản về cơ cấu sau đây:

Sự tăng trưởng của thị trường vốn từ những năm 1980. Giai đoạn 1974-1994, trong tổng vay nợ của khu vực phi tài chính thì tỷ trọng của các NHTM Mỹ đã giảm từ 30% xuống hơn 20% mặc dù con số tín dụng ngân hàng tuyệt đối vẫn tăng cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các NHTM càng lớn càng có điều kiện hoạt động đầu tư thông qua bảo trợ (Wing) và bảo lãnh phát hành (underwriting) cổ phiếu và trái phiếu, tư vấn M&A, buôn bán chứng khoán và hàng hoá trên tài khoản của ngân hàng và của các định chế khác. TTCK phát triển tạo ra những cơ hội mới cho các NHTM thông qua chứng khoán hoá (Securitise) hay bán đứt (sell off) các khoản nợ, sắp xếp các khoản phí mà không cần tăng vốn. Năm 2001, khoảng 18% thu nhập phi lãi suất của các NHTM Mỹ là từ bán và cung cấp dịch vụ đối với những tài sản đã chứng khoán hoá. Theo IMF, tổng tài sản của các ngân hàng châu Âu năm 2004 lên tới 28.000 tỷ USD, gấp 2,5 lần tổng giá trị thị trường chứng khoán nợ của khu vực tư nhân và gấp 3 lần mức vốn hoá (capitalisation) của thị trường chứng khoán châu Âu. Ngược lại, tổng tài sản của các ngân hàng ở Mỹ chỉ có 8.500 tỷ USD, chỉ bằng một nửa so với qui mô của thị trường chứng khoán nợ khu vực tư nhân hay thị trường cổ phiếu.

Công nghệ tin học phát triển mạnh cũng trong những năm 1980. Xuất hiện những đối thủ cạnh tranh với các NHTM bán lẻ (retail bank), chẳng hạn như thanh toán qua điện thoại di động đã mở đường cho các công ty điện thoại cạnh tranh với NHTM trong hoạt động thanh toán và quản lý tài khoản cá nhân. Tuy nhiên, việc đó cũng không dễ dàng với các công ty điện thoại do phải đối mặt với quản lý những rủi ro tài chính và phải chấp nhận những qui định nghiêm ngặt hơn. Các ngân hàng bán lẻ đưa ra những dịch vụ mới dựa trên sự phát triển của công nghệ tin học, chẳng hạn như dịch vụ ngân hàng trên mạng (online banking) trở thành phương thức mới rất có lợi cho ngân hàng trong phục vụ các khách hàng của mình. Số sản phẩm bình quân đã bán cho một khách hàng của một trong những ngân hàng bán lẻ tốt nhất ở Mỹ Wells Fargo đã từng từ 4,6 vào cuối năm 2004 lên 4,8 vào cuối năm 2005. Giảm sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động ngân hàng theo luật Riegle-Neal năm 1994. Xoá bỏ rào chắn giữa các ngân hàng, công ty bảo hiểm và công ty chứng khoán theo luật Gramm – Leach – Bliley năm 1999 cho phép thành lập các tập đoàn tài chính hỗn hợp (diversified financial groups). Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, đạo luật này có giá trị tương đương như việc xuất hiện đồng tiền chung châu Âu năm 1999 vì giai đoạn 1999-2004, giá trị các vụ hợp nhất thuộc lĩnh vực tài chính trong nội bộ châu Âu đạt 500 tỷ EURO, gần tương đương giá trị các vụ sáp nhập trong nội bộ nước Mỹ là 580 tỷ EURO.

Thực tế trên thế giới những năm gần đây cho thấy, ngân hàng khổng lồ hình thành qua 2 hình thức cơ bản là sáp nhập/hợp nhất (M&A) và tăng trưởng tự nhiên (organic growth). Trường hợp các ngân hàng “nuốt” lẫn nhau (bank-eat-bank) không nhiều. Khoảng một nửa các vụ sáp nhập ngân hàng trên thế giới làm giảm giá trị cổ phần, trong khi đó, các ngân hàng hạng trung lại tăng giá trị thị trường, một phần vì các nhà đầu tư hy vọng nó sẽ được ngân hàng lớn mua lại.

Ngân hàng khổng lồ, tập đoàn tài chính – ngân hàng là xu thế chung của cả thế giới. Ba siêu ngân hàng (megabank) mới của Nhật đã “nuốt” tới 11 ngân hàng cũ. Mười NHTM lớn nhất của Mỹ kiểm soát 49% tổng tài sản ngân hàng cả nước. Cách đây 10 năm con số này mới chỉ là 29%. Ngân hàng lớn thứ 3 của Mỹ theo giá trị thị trường (market capitalisation) JPMorgan Chase là kết quả sáp nhập giữa 550 ngân hàng và các định chế tài chính khác, 20 trong số đó sáp nhập trong vòng 15 năm qua.

Dưới đây, là mười vụ sáp nhập tài chính – ngân hàng lớn nhất thế giới từ năm 1995 đến nay.

6.3. Vai trò của tập đoàn tài chính – ngân hàng đối với sự phát triển nền kinh tế quốc gia:

Tập đoàn tài chính – ngân hàng được coi là một nguồn sinh lời lớn cho nền kinh tế, việc hình thành và phát triển tập đoàn tài chính – ngân hàng đóng một vai trò quan trọng và không thể thiếu trong mỗi nền kinh tế cụ thể là:

Các tổ chức được hình thành trong tập đoàn liên kết kinh tế nhằm tăng cường khả năng tích tụ, tập trung cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận trong tập đoàn.

Đây là nơi có khả năng sinh lợi lớn: thông qua lợi ích kinh tế nhờ quy mô, qua việc đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ và phạm vi hoạt động.

Hoạt động của tập đoàn tài chính – ngân hàng cho phép tiết kiệm chi phí (chi phí quản trị cũng như chi phí hoạt động): công nghệ thông tin được áp dụng mạnh mẽ, tương thích với nhu cầu phát triển dịch vụ và các sản phẩm tài chính đa dạng đã dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu chi phí, chi đầu tư gia tăng, song chi phí giao dịch và chi phí quản lý giảm mạnh.

Tập đoàn tài chính – ngân hàng còn đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tài chính ngày càng đa dạng và phức tạp. Tốc độ phát triển như vũ bão của kinh tế toàn cầu nói chung và của từng nền kinh tế nói riêng đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong nhu cầu về các dịch vụ tài chính của từng cá nhân cũng như của khu vực doanh nghiệp. Sự phức tạp và phong phú trong nhu cầu về các dịch vụ tài chính mới trên thị trường, đồng thời nó cũng là nguyên nhân buộc các nhà cung cấp dịch vụ tài chính hiên tại phải mở rộng hoạt động của mình bằng việc hội nhập với các nhà cung cấp mới nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.

Cuối cùng là vai trò phát triển nhờ thương hiệu: thương hiệu có uy tín sẽ đem đến lợi thế trong cạnh tranh. Thế mạnh của thương hiệu sẽ được phát huy một cách xuyên suốt thông qua việc sử dụng thương hiệu của một công ty lớn, có uy tín của tập đoàn cho tất cả các sản phẩm, dịch vụ tài chính và chuỗi các công ty cung cấp.

The post Lý luận chung về xây dựng mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng appeared first on Luận văn 1080.

No comments:

Post a Comment