Tuesday, February 19, 2019

Cơ sở lý luận quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh

Mục tiêu của quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh là làm cho nhân cách HS được hình thành và phát triển về mặt đạo đức để mỗi học sinh có thể nhận thức đúng các giá trị đạo đức, biết hành động theo lẽ phải, công bằng và nhân đạo, biết sống vì mọi người, tạo cơ sở để các em có cách ứng xử đúng đắn trong mối quan hệ với người khác (ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè…)  

1. Các khái niệm cơ bản

1.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý trường học

1.1.1. Quản lý

Có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm quản lý, sau đây là một số quan điểm:

Theo sự phân tích của Karl Marx thì “bất cứ nơi nào có lao động, nơi đó có quản lý” hay “một người chơi vĩ cầm riêng rẽ thì tự điều khiển mình nhưng một dàn nhạc thì cần có một nhạc trưởng” [24].

F.W. Taylor – Người cha của thuyết quản lý khoa học cho rằng: “quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất” [5].

Fayol – Nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp, quan niệm rằng: “quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất các nguồn nhân lực của nó” [5].

Tác giả Hà Sĩ Hồ đã định nghĩa: “quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ đích), có tổ chức, lựa chọn trong các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về thực trạng của đối tượng và môi trường, nhằm cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định” [12].

Tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ cho rằng: “quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục đích, quản lý có hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [18].

Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài nước (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [18].

Từ những khái niệm quản lý nêu trên, ta có thể rút ra được những dấu hiệu chung chủ yếu về bản chất của hoạt động quản lý là:

Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội, là sự tác động có hướng đích, có sự phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất, phù hợp với quy luật khách quan.

Hoạt động quản lý gồm hai thành phần chủ yếu có tác động qua lại:

  • Chủ thể quản lý (ai quản lý): chủ thể quản lý chỉ có thể là con người hoặc một tổ chức do con người cụ thể lập nên.
  • Đối tượng quản lý (quản lý ai, quản lý cái gì, quản lý công việc gì): đối tượng quản lý đó có thể là người, tổ chức, vật chất hay sự việc.

Các chức năng quản lý

Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý, là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ thể quản lý nảy sinh từ phân công, chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý nhằm thực hiện mục tiêu.

Quản lý gồm có các chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.

Lập kế hoạch là quá trình thiết lập các mục tiêu, các con đường, các biện pháp, các điều kiện đảm bảo cho hoạt động thực hiện các mục tiêu đó. Kế hoạch là nền tảng của quản lý.

Tổ chức là quá trình sắp xếp phân bổ công việc, chia sẻ quyền hành, nguồn lực cho các thành viên để họ có thể hoàn thành các mục tiêu xác định. Tổ chức là công cụ hết sức quan trọng của quản lý.

Chỉ đạo là quá trình các chủ thể quản lý điều khiển, hướng dẫn con người trong tổ chức để họ tự nguyện, nhiệt tình, tin tưởng, phấn đấu đạt các mục tiêu quản lý. Chỉ đạo là khâu quan trọng nhất trong quản lý.

Kiểm tra là đo lường, đánh giá kết quả của việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức nhằm tìm ra những ưu điểm và những hạn chế để điều chỉnh khâu lập kế hoạch, tổ chức và lãnh đạo. Các chức năng quản lý có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ, tác động ảnh hưởng lẫn nhau trong một môi trường quản lý xác định.  

Tóm lại chúng tôi cho rằng: quản lý là sự tác động điều hành có hướng đích, có hướng dẫn, có sự phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất, phù hợp với quy luật khách quan và mang lại lợi ích cho cá nhân, tổ chức, xã hội.

1.1.2. Quản lý giáo dục

Giáo dục là một hoạt động đặc biệt của con người, là hoạt động có mục đích, có chương trình, có kế hoạch. Giáo dục có hai chức năng tổng quát là ổn định, duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện hành của nền kinh tế – xã hội và thứ hai là đổi mới phát triển quá trình đào tạo, đón đầu sự tiến bộ, phát triển kinh tế – xã hội.

Lĩnh vực giáo dục cũng cần có quản lý như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Cũng như khái niệm quản lý, khái niệm quản lý giáo dục tuy vẫn còn nhiều quan điểm chưa hoàn toàn thống nhất, song đã có nhiều quan điểm cơ bản đồng nhất với nhau:

Theo P.V. Khuđôminxki: “quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ Giáo dục đến nhà trường), nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ. Trên cơ sở nhận thức và sử dụng những quy luật khách quan của quá trình dạy học, giáo dục, của sự phát triển về thể chất và tâm lý của trẻ em, thiếu niên cũng như thanh niên” [11].

Nhà khoa học Giáo sư Phạm Minh Hạc đã định nghĩa: “quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [18].

Đối với quản lý giáo dục cấp vi mô, tác giả Trần Kiểm cho rằng: “quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [18].

Vậy, quản lý giáo dục là sự tác động có chủ đích, có căn cứ khoa học, hợp quy luật và phù hợp các điều kiện khách quan của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm phát huy sức mạnh các nguồn lực giáo dục, từ đó đảm bảo các hoạt động của tổ chức,hệ thống giáo dục đạt được các mục tiêu đã đề ra với chất lượng, hiệu quả cao nhất.

Dựa vào phạm vi quản lý, người ta chia ra hai cấp độ quản lý giáo dục:

Quản lý hệ thống giáo dục: quản lý giáo dục ở tầm vĩ mô, phạm vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ (tỉnh, thành phố…).

Quản lý nhà trường: quản lý giáo dục ở tầm vi mô, trong phạm vi một cơ sở giáo dục đào tạo.

1.1.3. Quản lý trường học

Trường học (cơ sở giáo dục – đào tạo) là một tổ chức giáo dục mang tính Nhà nước – xã hội, là một bộ phận cấu thành của một hệ thống giáo dục, là nơi trực tiếp làm công tác đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Các trường học hoạt động theo Luật Giáo dục và Điều lệ nhà trường do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục đào tạo, đối với thế hệ trẻ và học sinh” [8].

Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng nhằm huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường” [37].

Tóm lại, quản lý trường học có thể hiểu là sự tác động quản lý có chủ đích của Hiệu trưởng tới tất cả các yếu tố, các mối quan hệ chức năng, các nguồn lực nhằm đưa mọi hoạt động của nhà trường đạt đến mức phát triển cao nhất.

1.2. Đạo đức và giáo dục đạo đức

1.2.1. Đạo đức

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được biểu hiện dưới dạng các quy tắc, chuẩn mực hành vi của con người trong các mối quan hệ với bản thân, với người khác, với công việc, với cộng đồng và với môi sinh.

Theo từ điển triết học: “Đạo đức là những quy tắc chung trong xã hội và hành vi của con người, quy định những nghĩa vụ của người này đối với người khác và đối với xã hội”.

Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằn điều chỉnh các đánh giá, hành vi ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, sức mạnh truyền thống và sức mạnh dân tộc” [33].

Theo tác giả Trần Hậu Kiêm: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống, quan niệm, những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực đạo đức ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội” [19].

Như vậy, bản chất đạo đức là những qui tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội,nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong cuộc sống, được xã hội thừa nhận và tự giác thực hiện.

Ngày nay, phạm trù đạo đức còn bao hàm cả ý thức trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ hòa bình và hợp tác cùng phát triển với các dân tộc khác. Đạo đức còn được hiểu là trách nhiệm của con người trong thực hiện nghĩa vụ công dân, được thể hiện ở thái độ, hành vi và hiệu quả học tập và rèn luyện trong lao động và hoạt động tập thể của mỗi cá nhân.

1.2.2. Giáo dục đạo đức

Theo tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục” [27].

Nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc tiếp cận khái niệm giáo dục đạo đức trong mối quan hệ thống nhất giữa nhận thức – tình cảm – thái độ – hành vi cho rằng: “giáo dục đạo đức là một quá trình kết hợp nâng cao nhận thức với hình thành thái độ, xúc cảm, tỉnh cảm, niềm tin hành vi và thói quen đạo đức” [8].

Dưới góc độ giáo dục học, giáo dục đạo đức là bộ phận hợp thành của nội dung giáo dục toàn diện nhằm giúp thế hệ trẻ hình thành lý tưởng, ý thức và tình cảm đạo đức, tạo nên những hành vi và thói quen hành vi đạo đức của con người mới, xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những phẩm chất đạo đức [28].

Giáo dục hành vi đạo đức là tổ chức cho học sinh lặp đi, lặp lại nhiều lần những thao tác, hành động đạo đức trong học tập, sinh hoạt, trong cuộc sống nhằm có được hành vi đạo đức đúng đắn và từ đó có thói quen đạo đức bền vững.

Ngày nay, giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa. giáo dục đạo đức chính là nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, pháp luật, làm cho học sinh có tinh thần yêu nước, thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thật sự say mê học tập, có ý thức tổ chức kỷ luật, kính thầy, yêu bạn, có nếp sống lành mạnh, biết tôn trọng pháp luật.

* Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THCS

giáo dục đạo đức cho học sinh THCS là một quá trình trong đó với vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, học sinh THCS tự giác tích cực tham gia vào các loại hình hoạt động và giao lưu nhằm hình thành biểu tượng, khái niệm đạo đức, bồi dưỡng xúc cảm, tình cảm đạo đức, rèn luyện kỹ năng và hành vi đạo đức [28].

Bản chất của hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THCS là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức hoạt động và giao lưu nhằm giúp các em có nhận thức đúng, có thái độ và hành vi phù hợp chuẩn mực đạo đức. giáo dục đạo đức là quá trình chuyển hóa một cách tích cực, tự giác những chuẩn mực đạo đức thành nhận thức, thái độ, hành vi và thói quen hành vi đạo đức ở các em học sinh.

Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THCS diễn ra dưới tác động giáo dục phức hợp từ nhiều phía, đó là những tác động giáo dục từ gia đình, tác động giáo dục từ nhà trường và xã hội. Những tác động này đan xen vào nhau, cùng chi phối đến nhận thức, thái độ, tình cảm và hành vi cá nhân học sinh, khi thì hỗ trợ lẫn nhau cùng tạo ra những ảnh hưởng tích cực, nhưng cũng có khi làm vô hiệu hóa kết quả của nhau làm ảnh hưởng không tốt đến quá trình giáo dục đạo đức học sinh.

1.3. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh

quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường là sự tác động có chủ đích, có căn cứ khoa học, hợp quy luật và phù hợp các điều kiện khách quan của Hiệu trưởng tới các lực lượng giáo dục, học sinh và các điều kiện hỗ trợ nhằm phát huy sức mạnh các nguồn lực giáo dục, từ đó đảm bảo các hoạt động giáo dục của nhà trường đạt được các mục tiêu giáo dục đã đề ra với chất lượng, hiệu quả cao nhất.

 

2. Lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh  

2.1. Chức năng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng

2.1.1. Xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục đạo đức

Xây dựng kế hoạch trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh là việc xác định các mục tiêu cho hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện các mục tiêu này.

Lập kế hoạch trong quản lý giáo dục đạo đức có vai trò rất quan trọng, giúp ích rất nhiều cho hoạt động quản lý của Hiệu trưởng và cho hoạt động giáo dục học sinh của nhà trường. Một kế hoạch được thực hiện tốt thì các hoạt động giáo dục đạo đức có sự tập trung, không dàn trải để đối phó và rất linh hoạt. Nó làm cho hoạt động của giáo viên và học sinh sẽ hướng tới kết quả một cách chủ động và tích cực hơn. Lập kế hoạch tốt sẽ tăng cường sự ủng hộ và sự phối kết hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm giáo dục đạo đức học sinh. Mặc dù họ có những mục tiêu và nhiệm vụ riêng nhưng việc hoàn thành mục tiêu riêng ấy thì cũng đã góp phần hướng tới yêu cầu chung của hoạt động giáo dục học sinh. Hơn nữa, khi lập kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức được thực hiện tốt thì việc kiểm tra cũng trở nên tốt hơn thông qua kết quả của những mục tiêu cụ thể, rõ ràng ấy. Đây còn là cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý và hoạt động giáo dục đạo đức học sinh [23].

Khi xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh người Hiệu trưởng cần phân tích thực trạng giáo dục đạo đức trong năm học của ngành, trường, địa phương; xác định điều kiện giáo dục như cơ sở vật chất, tài chính, quỹ thời gian, sự phối hợp với lực lượng giáo dục trong trường và ngoài trường để xác định mục tiêu và các hoạt động đạt mục tiêu trong hoạt động giáo dục đạo đức.

Ba nội dung cơ bản trong xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức là:

  • Xác định, hình thành mục tiêu, phương hướng đối với nhà trường về hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Hiệu trưởng và giáo viên trong trường cần xác định rõ cái gì cần thực hiện, ai là người thực hiện, thời gian thực hiện và đảm bảo rằng mọi thành viên trong trường biết và hiểu được những gì được kì vọng vào mỗi cá nhân trong hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Các mục tiêu này cần đảm bảo phổ biến rộng rãi, có văn bản để giáo viên và phải để giáo viên nhận thấy là có thể đạt được, cho họ thấy cần phải nỗ lực để đạt mục tiêu đó. Nếu đa số giáo viên thấy mục tiêu như điều gì không thể đạt được thì họ có thể hoàn toàn không để ý đến những mục tiêu này và không dành thời gian và nỗ lực để đạt tới chúng, có thể nói kế hoạch đến đây là không hiệu quả [23], [34].
  • Xác định và đảm bảo về các nguồn lực của nhà trường để đạt được những mục tiêu đề ra về hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh là một công việc và là trách nhiệm của mỗi giáo viên, của toàn bộ nhà trường, chứ không phải là của riêng giáo viên chủ nhiệm hay một vài giáo viên nào. Hiệu trưởng cần chú ý, định hướng tạo những điều kiện, môi trường, đảm bảo phương tiện, các nguồn lực gồm: tài chính cho các hoạt động giáo dục, cơ sở vật chất và trang thiết bị hỗ trợ cho hoạt động giáo dục, đội ngũ giáo viên chuyên trách có năng lực, các lực lượng giáo dục hoạt động có sự phối kết hợp tốt. Qua đó, học sinh có điều kiện để thực hiện những yêu cầu, những hành vi do nhà trường đề ra cho các em. Tránh việc nhà trường nêu ra nhiều yêu cầu cho các em mà không xây dựng, đảm bảo được những điều kiện, phương tiện để thực hiện yêu cầu đó [23], [34].
  • Quyết định những hoạt động nào là cần thiết để đạt được mục tiêu đã đề ra. Việc quyết định này dựa vào sự nắm bắt tình hình tư tưởng, đạo đức của học sinh bao gồm tình hình có tính chất thường xuyên, lâu dài, phổ biến và cả những tình hình có tính chất thời sự. Hiệu trưởng cần cân nhắc, lựa chọn những hoạt động giáo dục phù hợp với điều kiện thực tiễn nhà trường, tâm sinh lý học sinh, tính đặc thù của địa phương và bám sát vào chủ đề từng tháng học, năm học. Từ đó có kế hoạch giáo dục đạo đức cho từng khối lớp, theo chủ đề để đáp ứng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh [23], [34].

 

Kế hoạch giáo dục đạo đức nằm trong kế hoạch giáo dục tổng thể của nhà trường vì vậy kế hoạch phải đảm bảo tính thống nhất giữa mục tiêu giáo dục đạo đức với mục tiêu giáo dục trong trường THCS; phải đảm bảo phối hợp hữu cơ với kế hoạch dạy học trên lớp; phải đảm bảo lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp với hoạt động tâm sinh lý học sinh để đạt hiệu quả giáo dục cao.

2.1.2. Tổ chức việc thực hiện kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục đạo đức

Tổ chức là quá trình hình thành các quan hệ và cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong nhà trường nhằm tạo cơ chế đảm bảo sự phối hợp, điều phối tốt các nguồn lực, các điều kiện cho việc hiện thực hoá mục tiêu đã đề ra của kế hoạch [23].

Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh sau khi đã lập xong kế hoạch, đó là lúc cần phải chuyển hóa những ý tưởng thành hiện thực. Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong nhà trường để giúp họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của nhà trường về giáo dục đạo đức cho học sinh. Vì vậy các thành viên và các bộ phận cần được giải thích mục tiêu, yêu cầu của kế hoạch giáo dục đạo đức; thảo luận biện pháp thực hiện kế hoạch; sắp xếp bố trí nhân sự, phân công trách nhiệm QL, huy động cơ sở vật chất, kinh tế; định rõ tiến trình, tiến độ thực hiện, thời gian bắt đầu, thời hạn kết thúc.

Để tổ chức việc thực hiện kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh, Hiệu trưởng sẽ tiến hành phân công, quy định nhiệm vụ cho các lực lượng trong trường thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức năm học, học kì, tháng, tuần theo mục tiêu, nội dung đã đề ra, chẳng hạn như:

Hiệu trưởng chịu trách nhiệm chung, chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch chiến lược, kế hoạch bồi dưỡng, kế hoạch học năm và học kì. Hiệu trưởng cân đối ngân sách được cấp và nguồn huy động khác để thực hiện kế hoạch đầu tư phương tiện hỗ trợ hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh và xây dựng cảnh quan trường học. Hiệu trưởng tổ chức chỉ đạo tất cả các lực lượng giáo dục trong nhà trường và thực hiện kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục đạo đức.… [34].

Phó Hiệu trưởng chuyên môn, Tổ trưởng chuyên môn QL chất lượng giáo dục đạo đức thông qua bộ môn. Hiệu phó chuyên môn, Tổ trưởng bộ môn sẽ chịu trách nhiệm triển khai thực hiện yêu cầu lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trong hoạt động dạy học của GV bộ môn [34].

Đối với giáo viên chủ nhiệm, Hiệu trưởng xây dựng qui định về nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của giáo viên chủ nhiệm lớp trong tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm như: giáo viên chủ nhiệm chịu trách nhiệm chính trong giáo dục đạo đức cho học sinh, chịu trách nhiệm giáo dục học sinh chưa ngoan, đánh giá xếp loại học sinh của lớp chủ nhiệm [34].

Đối với giáo viên bộ môn, Hiệu trưởng căn cứ vào nhiệm vụ của giáo viên được qui định trong điều lệ trường học, tiến hành xây dựng qui định nhiệm vụ, trách nhiệm. quyền hạn của giáo viên bộ môn trong việc tham gia tổ chức các hoạt động giáo dục như: Thực hiện lồng ghép giáo dục đạo đức học sinh qua các môn học, phối hợp, hỗ trợ các hoạt động giáo dục khi có yêu cầu và gương mẫu cho học sinh noi theo… [34].

Như vậy, trách nhiệm giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường thuộc về tất cả cán bộ, giáo viên, gia đình và các lực lượng xã hội nhưng Hiệu trưởng vẫn giữ vai trò nòng cốt. Hiệu trưởng xác định nội dung, quyết định các hình thức, phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhà trường. Hiệu trưởng còn là người trực tiếp tham gia giáo dục đạo đức học sinh thông qua nhiều hoạt động. Để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao trên, người Hiệu trưởng phải tìm cho mình những biện pháp giáo dục phù hợp với đối tượng học sinh. Khi phân công người phụ trách các hoạt động giáo dục đạo đức, Hiệu trưởng cần lưu ý sự hợp lí, phù hợp với năng lực, sở trường, nguyện vọng của họ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, không chồng chéo, không lãng phí.

2.1.3. Chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục đạo đức

Chỉ đạo là chỉ huy, ra lệnh cho các bộ phận trong nhà trường thực hiện những nhiệm vụ để bảo đảm việc giáo dục đạo đức diễn ra đúng hướng, đúng kế hoạch, tập hợp và phối hợp các lực lượng giáo dục sao cho đạt hiệu quả. Chức năng chỉ đạo trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là cơ sở để phát huy các động lực cho việc thực hiện các mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục và góp phần tạo nên chất lượng, hiệu quả cao cho các hoạt động này. Chỉ đạo có vai trò cùng với chức năng tổ chức để hiện thực hóa mục tiêu của hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh [23].

Để chắc chắn việc thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường được hiệu quả, đáp ứng mục tiêu, nguyên tắc, nội dung, phương pháp và hình thức của hoạt động giáo dục, Hiệu trưởng cần thực hiện một số biện pháp như:

Chỉ đạo họp giao ban định kỳ các lực lượng đã được phân công nhằm: tổng kết, rút kinh nghiệm việc tổ chức các hoạt động giáo dục đã làm; đôn đốc, quan tâm, theo dõi, giám sát việc thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức từng học kì, hàng tháng, hàng tuần; chỉ đạo việc tổ chức tuyên truyền cho đội ngũ cán bộ giáo viên nhà trường, cho cha mẹ học sinh để làm cho các đối tượng nhận thức đúng đắn về vai trò, nhiệm vụ của các hoạt động giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh, từ đó họ tự giác tham gia tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức và hỗ trợ nhà trường tổ chức hoạt động này; đảm bảo, thống nhất các nguyên tắc, hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức; chỉ đạo tổ chức huấn luyện, dưỡng cho giáo viên nội dung, phương pháp giáo dục, kỹ năng phục vụ hoạt động giáo dục đạo đức [34].

Chỉ đạo hoạt động của khối chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm: Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên triển khai kế hoạch theo chủ đề giáo dục đạo đức hàng tháng của toàn trường; từng khối bộ môn trao đổi thống nhất mức độ nội dung, hình thức hoạt động nhằm làm cho hoạt động giáo dục phù hợp tâm sinh lí lứa tuổi, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của học sinh. Trên cơ sở đó, giáo viên chủ nhiệm tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức phù hợp với học sinh khối lớp chủ nhiệm [34].

Hiệu trưởng chỉ đạo các tổ bộ môn, giáo viên bộ môn thực hiện lồng ghép hoạt động giáo dục đạo đức qua các môn học và tham gia các hoạt động giáo dục đạo đức học sinh.

 

Hiệu trưởng chỉ đạo hoạt động của tổ chức Đội: đặt ra yêu cầu, mục tiêu, định hướng các chương trình hoạt động trọng tâm của hoạt động Đội nhằm giáo dục đạo đức học sinh; đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ đạo lựa chọn các chủ đề hoạt động sinh hoạt dưới cờ [34].

Hiệu trưởng chủ động liên hệ, tư vấn, phối hợp các lực lượng trong hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.

Hiệu trưởng quan tâm, theo dõi, động viên, hướng dẫn, tư vấn giải pháp giáo dục học sinh chưa ngoan và vấn đề tự rèn luyện của học sinh.

2.1.4. Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục đạo đức

Kiểm tra là một trong các chức năng của người làm quản lý, không phân biệt họ làm việc ở cấp nào trong bộ máy quản lý nói chung và trong bộ máy QL trường học nói riêng. Kiểm tra là chức năng cuối cùng của một quá trình quản lý đồng thời chuẩn bị cho một quá trình quản lý tiếp theo [23].

Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức gắn liền với công việc của cán bộ quản lý, giáo viên ở trường phổ thông và thông thường theo một số hướng chủ yếu sau đây [4]:

Kiểm tra để theo dõi để cho hoạt động giáo dục đạo đức phù hợp với nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục của nhà trường và sự phân công của cấp trên.

Kiểm tra để quan sát, bảo đảm nhiệm vụ được giao có đủ điều kiện thực hiện, phù hợp với thực tế hay không. Kiểm tra để hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động giáo dục đạo đức kịp thời nhằm tăng hiệu quả công việc của từng bộ phận trong nhà trường.

Kiểm tra kết quả cuối cùng, đánh giá hiệu quả thực tế của hoạt động giáo dục đạo đức theo kế hoạch đặt ra.

Về mặt QL chung, kiểm tra hướng tới việc xem xét tính hợp lý hay không hợp lý của một chương trình công tác đã vạch ra, khả năng thực hiện trong thực tế. Ở nhà trường phổ thông, hoạt động kiểm tra sẽ hướng tới các tiêu chuẩn, các định mức nêu ra cho các loại công việc, các phương tiện được sử dụng, nguồn tài chính, con người…

 

Theo quan điểm hệ thống, cơ sở của kiểm tra là sự kết hợp chặt chẽ giữa các nhân tố khác nhau trong cùng một công việc. Để kiểm tra, người QL cần phải xây dựng các tiêu chuẩn, cần đo lượng công việc và cuối cùng đều phải có sự điều chỉnh các tiêu chuẩn cho phù hợp với nhiệm vụ, kế hoạch đặt ra. Quá trình đó diễn ra mọi nơi và cho mọi đối tượng. Do vậy, các nhà QL còn gọi kiểm tra là một hệ thống liên hệ ngược. Nó được hiểu như một hệ thống phản hồi có mối liên hệ chặt chẽ đến các chức năng còn lại trong QL [17].

Trong QL hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh, công tác kiểm tra có thể hiểu là hoạt động nghiệp vụ QL của người cán bộ quản lý nhằm điều tra, theo dõi, kiểm soát, phát hiện, xem xét sự diễn biến và đánh giá kết quả các hoạt động giáo dục đó có phù hợp với mục tiêu, kế hoạch, chuẩn mực, quy định đề ra hay không. Qua đó, kịp thời động viên mặt tốt, điều chỉnh, uốn nắn những mặt chưa đạt chuẩn nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục đạo đức trong nhà trường [34].

Hiệu trưởng có thể tiến hành kiểm tra định kỳ, thường xuyên, đột xuất, trực tiếp, hoặc gián tiếp để giúp học sinh hiểu rõ hơn về những hoạt động của mình, khẳng định được mình, từ đó hoạt động tích cực hơn, tự giác hơn, biết tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu chung của xã hội.

Một số hoạt động nhằm kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh ở nhà trường:

Sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm việc thực hiện kế hoạch học kì, tháng, tuần.

Kiểm tra đánh giá giáo viên sau khi tập huấn, bồi dưỡng.

Kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng thiết bị hỗ trợ hoạt động giáo dục đạo đức.

Đánh giá hoạt động giáo viên chủ nhiệm qua kế hoạch, sổ sách, dự giờ.

Dự giờ giáo viên bộ môn để đánh giá việc thực hiện lồng ghép giáo dục đạo đức trong dạy học.

Tham gia nhận xét, góp ý, rút kinh nghiệm thực hiện phối hợp các lực lượng giáo dục.

Kiểm tra, đánh giá thông qua báo cáo, kiểm tra thực tế, kết quả đạt được của Đoàn, Đội và thông qua nhận xét, đánh giá của cấp trên.

Kiểm tra, giám sát, đánh giá, thảo luận rút kinh nghiệm hoạt động giáo dục học sinh chưa ngoan.

Tuyên dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân thực hiện tốt hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.

Nhắc nhở, kiểm điểm những cá nhân chưa thực hiện tốt hoạt động này.

2.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng

* Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của giáo viên chủ nhiệm các lớp

Trong trường học, người giáo viên chủ nhiệm có một vai trò rất quan trọng. giáo viên chủ nhiệm lớp là người thay mặt Hiệu trưởng chịu trách nhiệm chính về quản lý và giáo dục toàn diện học sinh một lớp học. Do đó, người Hiệu trưởng cần ý thức tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp, am hiểu, nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung công tác chủ nhiệm lớp để có kế hoạch tổ chức, chỉ đạo thực hiện nhằm phát huy tính tích cực của đội ngũ này [35].

Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của giáo viên chủ nhiệm:

Hiệu trưởng xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch chỉ đạo công tác chủ nhiệm. Hiệu trưởng hướng dẫn, chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu, thu thập xử lí thông tin liên quan đến tình hình lớp học sinh để làm cơ sở cho hoạt động giáo dục đạo đức; tổ chức cho giáo viên xây dựng kế hoạch chủ nhiệm thống nhất trong toàn trường.

Hiệu trưởng phân công, phân nhiệm giáo viên chủ nhiệm các lớp theo năng lực.

Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên thực hiện các nội dung công tác chủ nhiệm nhằm giáo dục đạo đức học sinh như: việc tìm hiểu học sinh và lớp chủ nhiệm, xây dựng bộ máy tổ chức lớp, việc tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh, việc phối hợp với gia đình và các lực lượng giáo dục khác.

Hiệu trưởng tiến hành kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của giáo viên chủ nhiệm, kiểm tra các nội dung công tác chủ nhiệm.

* Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của Đội Thiếu niên Tiền phong

Đội Thiếu niên Tiền phong là lực lượng giáo dục trong nhà trường thu hút đông đảo học sinh tham gia nhằm giúp đỡ các em phát huy năng lực trong học tập, lao động, vui chơi. Đây là lực lượng quan trọng trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Đặc biệt, trong hoạt động của Đội thì nội dung, phương thức, hình thức tổ chức quyết định chất lượng hoạt động của tổ chức này. Do đó, người Hiệu trưởng cần tư vấn, định hướng, chỉ đạo lựa chọn về nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục, tạo điều kiện hỗ trợ tốt nhất để hoạt động giáo dục đạt hiệu quả. Hiệu trưởng cần có sự thường xuyên giữ thông tin hai chiều, yêu cầu Tổng phụ trách Đội báo cáo việc thực hiện kế hoạch và kết quả của các hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh [35].

* Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của GV bộ môn và các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường

GV bộ môn và các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường cũng giữ một vai trò không kém phần quan trọng trong hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Chất lượng và hiệu quả giáo dục của lớp học phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất và năng lực sư phạm của đội giáo viên đang giảng dạy. Vì vậy, Hiệu trưởng cần chỉ đạo cho GV bộ môn và các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường phải không ngừng học tập, tu dưỡng đạo đức, phải là tấm gương cho học sinh noi theo; cần phổ biến, đôn đốc GV bộ môn thực hiện giáo dục đạo đức ngay trong bài dạy trên lớp, giáo dục đạo đức trong kiểm tra, thi cử; cần kiểm tra việc sử dụng các hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh; cần thường xuyên trao đổi với GV để nắm bắt tình hình giáo dục học sinh các lớp [35].

* Quản lý sự phối hợp trong hoạt động giáo dục đạo đức của các lực lượng giáo dục trong nhà trường

Mỗi lực lượng giáo dục trong nhà trường đều có vai trò, chức năng, nhiệm vụ đặc thù riêng của mình nhưng đều có sự thống nhất là đảm bảo tốt nhất sự phát triển toàn diện nhân cách cho người học. quản lý nội dung này, Hiệu trưởng cần có nghệ thuật sử dụng và phối kết hợp các lực lượng nhằm phát huy những ưu điểm của từng lực lượng nhằm mang đến kết quả giáo dục học sinh tốt nhất có thể; cần tổ chức các lực lượng thành một khối đoàn kết thống nhất để có tác động mạnh mẽ nhất đến học sinh tránh các tác động rời rạc, tùy tiện, vô hiệu hóa lẫn nhau; cần tổ chức, trao đổi, bàn bạc thống nhất, cải tiến về kế hoạch, nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp, kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh toàn trường [35].

* Quản lý việc xây dựng môi trường GD, các điều kiện phục vụ hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh

Hiệu trưởng tổ chức, sắp xếp, tu sửa, trang điểm bộ mặt vật chất, khung cảnh của trường sao cho toàn bộ khung cảnh của trường đều toát lên ý nghĩa giáo dục đạo đức cho học sinh.

Hiệu trưởng cần tạo bầu không khí giáo dục trong toàn trường và lớp học như: xây dựng nền nề nếp tốt, trật tự, vệ sinh, ngăn nắp; dư luận tập thể tốt, ủng hộ cái tốt, phê phán cái xấu, tạo nên phong trào thi đua sôi nổi; xây dựng mối quan hệ tốt giữa thầy trò, thầy và thầy, học sinh với nhau [35].

quản lý hoạt động thi đua, khen thưởng, kỷ luật trong giáo dục đạo đức

Hoạt động thi đua, khen thưởng, kỷ luật trong giáo dục đạo đức cho học sinh mang ý nghĩa quan trọng góp phần kích thích, thúc đẩy, điều chỉnh nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức trong ứng xử của các em. quản lý nội dung này, Hiệu trưởng cần tư vấn, chỉ đạo các lực lượng giáo dục xây dựng các hoạt động thi đua, khen thưởng theo các chủ đề năm học, học kì và theo từng tháng sao cho phù hợp với thực tiễn nhà trường, thu hút được học sinh tham gia. Hiệu trưởng cần xây dựng thống nhất các tiêu chí, chỉ tiêu cho các hoạt động thi đua, nắm bắt kịp thời tấm gương tốt để biểu dương; đề ra các quy định, nội quy để xây dựng nề nếp cho học sinh; chỉ đạo thống nhất các hình thức, phương pháp, mức tiến hành kỷ luật học sinh sao cho thể hiện tính giáo dục cao [35].

 

3. Tài liệu tham khảo

  1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2011 – 2020, Hà Nội.
  1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ và trường phổ thông có nhiều cấp học Ban hành kèm theo Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
  1. Lê Thị Thanh Chung (2002), Lý luận dạy học môn đạo đức ở Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM.
  2. Dự án SREM của Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Tài liệu đào tạo CBQL giáo dục, Hà Nội.

         Nguyễn Thị Liên Diệp (2008), Quản trị học, Nxb Thống kê.

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ 2 BCHTƯ khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội .
  2. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  3. Phạm Minh Hạc (1998), Một số vấn đề về giáo dục và khoa học giáo dục.
  4. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển con người toàn diện thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  5. Nguyễn Kế Hào (2009), Giáo trình tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
  6. Hà Sĩ Hồ, Phạm Thị Diệu Vân, Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục/ M. I. Konđakốp.
  7. Hà Sĩ Hồ (1985), Những bài giảng về quản lý trường học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
  8. Nguyễn Văn Hộ, Hà Thị Đức (2002), Giáo dục học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  9. Đặng Vũ Hoạt (1996), Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THCS, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  10. Nguyễn Khắc Hùng (2011), Văn hóa và văn hóa học đường, Nxb Thanh Niên.
  11. Trần Thị Hương (2009), Giáo trình giáo dục học phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
  12. Vương Thanh Hương (2007), Hệ thống thông tin quản lý giáo dục một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
  13. Trần Kiểm (2004), Khoa học quản lý giáo dục một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  14. Trần Hậu Kiêm (1997), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  15. Jan Amos Komensky (1991), Thiên đường Trái Tim, Nxb Ngoại văn.
  16. Nguyễn Hiến Lê (1995), Khổng Tử – Luận ngữ, Nxb Văn học.
  17. Mai Ngọc Liên (2008), Giáo trình Giáo dục học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  18. Nguyễn Lộc (2010), Lý luận về quản lý, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
  19. Hoàng Văn Luân (2008), Bài giảng lịch sử các tư tưởng quản lý, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
  20. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  21. Hà Thế Ngữ (2001), Giáo dục học-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
  22. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1998), Giáo dục học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  23. Trần Thị Tuyết Oanh (2006), Giáo dục học – Tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
  24. Ngô Đình Qua (2013), Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Trường
  25. Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
  26. Nguyễn Ngọc Quang (1987), Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục, Trường quản lý Giáo dục TW I.
  27. Phạm Hồng Quang (2006), Môi trường giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  28. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Khóa XII (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ngày 25 tháng 11 năm 2009, Hà Nội.
  29. Hà Nhật Thăng (2007), Giáo trình đạo đức và giáo dục đạo đức, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
  30. Trường CBQL giáo dục TP Hồ Chí Minh (2006), Bài giảng bồi dưỡng CBQL trường tiểu học, Thành phố Hồ Chí Minh.
  31. Trường CBQL giáo dục TP Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình nghiệp vụ quản lý phổ thông, Thành phố Hồ Chí Minh.
  32. Dương Thiệu Tống (2005), Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học giáo dục, Nxb Khoa học xã hội.
  33. Phạm Viết Vượng (2000), Giáo dục học, Nxb Đại học Quốc gia.

 

The post Cơ sở lý luận quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh appeared first on Luận văn 1080.

No comments:

Post a Comment