Kế toán quản trị là quá trình nhận diện, đo lường, phân tích, diễn giải và truyền đạt thông tin trong quá trình thực hiện các mục đích của tổ chức. Kế toán quản trị là một bộ phận thống nhất trong quá trình quản lý
1. Vai trò của kế toán trong quản lý doanh nghiệp
Theo tinh thần của kế toán quốc tế, kế toán được định nghĩa là hệ thống thông tin và kiểm tra dùng để đo lường/phản ánh, xử lý và truyền đạt những thông tin về tài chính, kết quả kinh doanh và các luồng tiền tạo ra của một đơn vị kinh tế.
Theo Luật kế toán của Việt Nam, định nghĩa kế toán được trình bày ở điều 4 như sau: Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.
Theo điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước Việt Nam thì kế toán được xem là việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trị để phản ánh kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản, quá trình và kết quả sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn của Nhà nước, cũng như của từng tổ chức, xí nghiệp.
Vậy kế toán thực hiện ba công việc cơ bản là đo lường, xử lý/ghi nhận và truyền đạt/cung cấp thông tin định lượng về hiện trạng tài chính, kết quả kinh doanh và luồng tiền tạo ra trong một đơn vị. Trong thực tiễn công tác kế toán thường được đặt ra ba câu hỏi sau:
Thứ nhất, kế toán đo lường cái gì?
– Theo các định nghĩa, kế toán đo lường và phản ánh, xử lý các nghiệp vụ/giao dịch kinh tế – tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động của một đơn vị.
Thứ hai, kế toán phản ánh và xử lý các nghiệp vụ khi nào và như thế nào? – Kế toán sử dụng các nguyên tắc, chuẩn mực, các phương pháp, công cụ kế toán để ghi chép, phản ánh tình trạng và những sự thay đổi của các giao dịch và phân tích những ảnh hưởng của những sự thay đổi này trên tài sản của đơn vị.
Thứ ba, kế toán truyền đạt cung cấp thông tin bằng cách nào?
– Chính bằng các báo cáo tài chính.
Mục tiêu chính của kế toán là phân tích, giải trình và sử dụng thông tin. Trong doanh nghiệp cần rất nhiều dạng thông tin khác nhau, trong đó hệ thống thông tin kế toán là một trong những bộ phận quan trọng vì nó giữ vai trò then chốt trong quản lý dữ kiện kinh tế. Nó là trung tâm tài chính của hệ thống thông tin quản trị giúp ban giám đốc cũng như người ngoài doanh nghiệp có một cái nhìn tổng quát về tổ chức của đơn vị. Điểm hạn chế của kế toán là nó chỉ cung cấp được những thông tin định lượng mà thôi. Những gì không định lượng kế toán không phản ánh được.
Hình 1
Thông tin kế toán có vị trí đặc biệt quan trọng trong tất cả các bước ra quyết định về kinh tế và kinh doanh bởi vì nó cung cấp những thông tin định lượng giúp lượng hóa các mục tiêu đặt ra (bước 1), lượng hóa việc phối hợp các nguồn lực sẵn có của tổ chức để tạo thành các phương án khác nhau (bước 2), trên cơ sở đó có thể lựa chọn được phương án tối ưu trong sử dụng nguồn lực của tổ chức (bước 3). Một khi các quyết định đã được đưa ra, tiếp theo sẽ là việc thực hiện phương án đã lựa chọn (bước 4) và sau cùng là việc lượng hóa kết quả của việc thực hiện phương án nhằm đối chiếu với mục tiêu đặt ra, lượng hóa mức độ đạt được mục tiêu đến đâu (bước 5).
Chức năng kế toán không chỉ dừng ở mức độ ghi chép và lưu giữ các dữ liệu tài chính, mà điều quan trọng hơn là phải thiết lập một hệ thông tin cho quản lý, làm cho các thông tin có ích cho các quyết định kinh tế đối với người sử dụng thông tin của kế toán cung cấp. Các quyết định kinh tế của người quản lý làm cho hoạt động kinh doanh tiến hành liên tục và theo đó các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kế toán lại thu nhận, xử lý và cung cấp trở lại cho người ra quyết định để kiểm soát và quản lý chúng. Như vậy, nó tạo thành một hệ thống thông tin khép kín và có tính kiểm soát lẫn nhau
Hình 2
Vai trò quan trọng của kế toán trong quản lý kinh doanh được thể hiện qua các điểm sau:
Kế toán là một phân hệ thông tin kinh tế quan trọng cấu thành nên hệ thống thông tin kinh tế của doanh nghiệp thông qua việc thu nhận, xử lý và cung cấp toàn bộ những thông tin về các hoạt động kinh tế, tài chính xảy ra trong doanh nghiệp với đặc điểm riêng có của thông tin kế toán.
Kế toán là công cụ quan trọng phục vụ cho công tác điều hành, quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Thực tế đã chứng minh, các nhà quản lý, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp,… muốn điều hành, quản lý hoặc có những quyết định liên quan đến doanh nghiệp thì nhất thiết phải nắm được những thông tin về kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Những thông tin đó có thể lấy được từ nhiều nguồn khác nhau, song có thể khẳng định rằng chỉ những thông tin do kế toán cung cấp thì mới đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đặt ra của quản lý.
Như vậy, kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài chính, nó có vai trò tích cực phục vụ cho việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế.
2. Mục đích của kế toán quản trị và kế toán tài chính
Theo mục đích cung cấp thông tin, hệ thống kế toán trong doanh nghiệp được chia thành kế toán tài chính và kế toán quản trị
Trong nền kinh tế thị trường, những chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có lợi ích kinh tế, quyền hạn, trách nhiệm, quan hệ khác nhau dẫn đến hình thành những nhu cầu thông tin khác nhau về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đó là nhu cầu thông tin của nhóm đối tượng bên ngoài doanh nghiệp và nhu cầu thông tin của nhóm đối tượng bên trong doanh nghiệp. Từ đó, trong nền kinh tế thị trường, hệ thống kế toán doanh nghiệp phải có hai bộ phận chuyên môn để đáp ứng nhu cầu thông tin của hai nhóm đối tượng khác nhau. Đó chính là kế toán tài chính và kế toán quản trị.
2.1 Kế toán tài chính
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của kế toán tài chính
Trên thế giới
Các bản ghi kế toán đã xuất hiện từ năm 8500 trước công nguyên ở Trung Á, viết bằng đất sét thể hiện các hàng hóa như bánh mì, dê, quần áo… bản ghi này được gọi là bullae, một dạng hóa đơn ngày nay. Bullae được gửi cùng với hàng hóa nhằm giúp người nhận kiểm tra lại chất lượng và giá cả của số hàng mình nhận được. Lúc này vẫn chưa có hệ số đếm khác nhau.
Đến năm 850 trước công nguyên, hệ số đếm Hindus – Arabic ra đời và được sử dụng cho đến ngày nay. Việc giữ các bản ghi vẫn chưa được hình thức hóa cho đến mãi thế kỷ 13, xuất phát từ các giao dịch kinh doanh và ngân hàng tại Florence, Venice và Genoa. Tuy nhiên, các tài khoản không thực sự thể hiện được bản chất nghiệp vụ giao dịch và hiếm khi cân đối.
Phải đến năm 1299 con người mới phát hiện hệ thống thông tin tài chính gồm tất cả các yếu tố cấu thành của hệ thống kế toán kép và vào năm 1494, Luca Pacioli tác giả cuốn Summa, hệ thống kế toán kép mới được miêu tả một cách cụ thể và rõ nét. Sau đó 377 năm, Josial Wedwood là người đầu tiên hoàn thiện hệ thống kế toán giá thành. Hệ thống kế toán từ đó đã ngày càng được hoàn chỉnh hơn với việc hoàn thiện hệ thống kế toán giá thành hiện đại của Donaldson Brown – Giám đốc điều hành của General Motor.
Hiện nay trên thế giới đã có một tổ chức riêng ban hành các chuẩn mực kế toán quốc tế. Tổ chức thiết lập chuẩn mực kế toán quốc tế gồm Tổ chức Ủy Ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASCF), Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), Hội đồng cố vấn chuẩn mực (SAC), Hội đồng hướng dẫn báo cáo tài chính quốc tế (IFRIC) chính:
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, hệ thống tài chính kế toán đã phát triển qua ba giai đoạn
– Trước những năm 1990: đây là giai đoạn mà nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế bao cấp, các thành phần kinh tế chỉ có quốc doanh, tập thể và cá thể mà giữ thành phần chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh và không có các hoạt động thương mại buôn bán tự do trên thị trường. Do đặc điểm này mà hoạt động của các kế toán viên chủ yếu tuân thủ theo nội quy, quy định của Bộ Tài Chính – Cơ quan cao nhất chịu trách nhiệm quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa.
– Từ năm 1991-1994: đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự xuất hiện của nền kinh tế nhiều thành phần đã tác động đến bản chất và đặc thù của nghề kế toán. Nhiều thuật ngữ trong lĩnh vực kế toán ra đời như khái niệm lãi, lỗ, lợi nhuận…mà đối với nhiều kế toán viên chỉ quen làm trong nền kinh tế bao cấp là khá trừu tượng và khó hiểu.
– Giai đoạn từ 1995 đến 2006 chính là thời gian mà hệ thống tài chính kế toán nước ta có những bước phát triển cao nhất và hoàn thiện nhất. Đặc biệt là từ năm 1995 đến nay, hệ thống kế toán tài chính nước ta đã hình thành và phát triển lĩnh vực kiểm toán. Sự phát triển vượt bậc này đánh dấu bởi sự ra đời của Luật Kế toán Việt Nam do quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 3 thông qua cũng như các chuẩn mực về kế toán tài chính riêng của Việt Nam đã được ban hành. Kế toán tài chính tại Việt Nam không còn phát triển một cách đơn lẻ tự phát nội bộ mà đã có hệ thống và liên kết với thế giới. Đánh dấu bước phát triển quan trọng này là vào năm 1996 Hội Kế Toán Việt Nam (VAA) ra đời và trở thành thành viên của Liên Đoàn Kế Toán quốc tế (IFAC) cũng như là thành viên của Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA).
Hệ thống kế toán Việt Nam, với tư cách là một công cụ quản lý kinh tế – tài chính quan trọng nhất đã được thiết kế, xây dựng mới và ban hành chính thức áp dụng từ ngày 1/1/1996 đối với mọi loại hình doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế. Đó chính là hệ thống kế toán được ban hành theo Quyết định 1141TC/CĐKT ngày 1/1/1995 của Bộ Tài Chính. Để đáp ứng yêu cầu cơ chế quản lý kinh tế thị trường ở nước ta, hệ thống kế toán theo Quyết định 1141TC/CĐKT đã được cải cách triệt để, dựa trên cơ sở vận dụng có chọn lọc các nguyên tắc, chuẩn mực và thông lệ phổ biến của các nước có nền kinh tế phát triển. Việc cải cách được tiến hành ở tất cả các nội dung cấu thành hệ thống kế toán đó là hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán và hệ thống báo cáo tài chính.
– Từ 2006 đến nay, hệ thống kế toán mới được ban hành theo quyết định số 15/2006/QĐ- BTC ngày 20/3/2006 của Bộ Tài Chính thay thế cho Quyết định 1141TC/CĐKT để phù hợp với các chuẩn mực kế toán đã được ban hành.
2.1.2 Khái niệm kế toán tài chính
Kế toán tài chính là một hệ thống kế toán phản ánh toàn bộ tài sản, vật tư tiền vốn, tình hình mua bán, chi phí, thu nhập, công nợ và tính kết quả ở dạng tổng quát của doanh nghiệp. Số liệu của kế toán tài chính dùng để lập bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh từng thời kỳ và các báo cáo tài chính khác. Kế toán tài chính nhằm cung cấp những thông tin kinh tế mà ngoài việc sử dụng cho nội bộ, còn được cung cấp cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như: các nhà đầu tư, các bên có quan hệ mua bán hàng hóa, cơ quan quản lý Nhà nước (Thuế, tài chính, các cơ quan kiểm tra,….)
2.1.3 Chức năng của kế toán tài chính
Theo dõi có hệ thống tình hình hiện có và sự biến động của các tài sản và sự hình thành tài sản, tổng chi phí, thu nhập, kết quả và phân phối kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Theo dõi và cung cấp thông tin về tình hình tài sản, tình hình mua bán và các khoản công nợ của doanh nghiệp, cung cấp nguồn thông tin để lập bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh và các báo cáo tài chính khác của doanh nghiệp.
Cung cấp thông tin cho việc xác định thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước theo luật định.
Là đối tượng của các hoạt động kiểm tra.
2.1.4 Đối tượng sử dụng thông tin kế toán tài chính
Đối tượng sử dụng thông tin kế toán rất đa dạng, nhất là khi doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh của kinh tế thị trường. Những đối tượng chủ yếu có thể kể ra đây bao gồm:
Những người sở hữu doanh nghiệp: thông qua phân tích tình hình thông tin kinh tế tài chính của doanh nghiệp giúp họ có thể đưa ra được những quyết định quan trọng sáng suốt là tiếp tục hay từ bỏ quyền sở hữu.
Các nhà tín dụng của doanh nghiệp: cũng thông qua bức tranh phản ánh của kế toán mà giúp họ có quyết định nên hay không nên tiếp tục mở rộng quan hệ tín dụng với doanh nghiệp.
Các cơ quan quản lý của Nhà nước: thông qua hệ thống báo cáo tài chính kế toán giúp họ kiểm tra, xem xét doanh nghiệp có tuân thủ, chấp hành những quy định, luật lệ của Nhà nước không.
Hình 3
Những người làm công: giúp họ có được những thông tin để trao đổi, bàn bạc thỏa thuận về hợp đồng lao động với doanh nghiệp.
Khách hàng của công ty: giúp họ xác định mối quan hệ với doanh nghiệp và quyết định về những mối quan hệ trong tương lai.
Cuối cùng là các nhà đầu tư, các cổ đông: những thông tin về tài chính là phần hữu cơ không thể tách rời khi phân tích về năng lực hoạt động của doanh nghiệp. Thông qua đó giúp họ quyết định có tiếp tục đầu tư vào doanh nghiệp nữa hay không.
Hệ thống thông tin trong các báo cáo tài chính được trình bày theo cùng một khuôn dạng qua các năm và theo một quy chuẩn nhất định, điều này giúp cho người sử dụng có thể tin cậy vào thông tin trong các báo cáo.
2.2 Kế toán quản trị
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của kế toán quản trị
Trên thế giới
Kế toán quản trị bắt nguồn từ kế toán chi phí, xuất hiện từ khoảng năm 1850 trong ngành dệt và ngành đường sắt ở Mỹ. Lúc bấy giờ, kế toán chi phí có nhiệm vụ cung cấp các thông tin về chi phí để phục vụ cho việc kiểm soát và lập kế hoạch nội bộ. Sau đó, kế toán chi phí phát triển mạnh mẽ trong các ngành: thuốc lá, hóa chất… và trở thành một công cụ quản lý hữu hiệu. Kế toán chi phí càng trở nên quan trọng hơn cùng với quá trình phát triển kinh tế và giao thương ngày một mở rộng trên thế giới. Tuy nhiên, nhu cầu quản lý ngày càng đòi hỏi phải có những công cụ quản lý hiệu quả hơn, từ đó thúc đẩy sự đổi mới của kế toán chi phí. Kế toán quản trị ra đời từ nền tảng là kế toán chi phí truyền thống, cộng với những thay đổi nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu quản lý. Trong giai đoạn này, kế toán quản trị được xem là một hoạt động đơn thuần mang tính chất kỹ thuật nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Vào những năm 1960, tài liệu chính thức đầu tiên về kế toán quản trị được áp dụng cho những mô hình định lượng trong nhiều vấn đề kiểm soát và lập kế hoạch như: phân tích hồi quy, phương trình tuyến tính và không tuyến tính, lý thuyết xác suất, lý thuyết ra quyết định… Bước sang thập kỷ 70-80, kế toán quản trị phát triển mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ. Các kỹ thuật mới được áp dụng như: xác định định phí, biến phí, dự toán lợi nhuận, dự toán tiêu thụ, phân tích mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận, các quyết định nên tiếp tục sản xuất hay nên mua ngoài, phân bổ chi phí cho sản phẩm, phân tích nguyên nhân sai lệch chi phí thực tế so với chi phí kế hoạch.
Được xem là một ngành độc lập, kế toán quản trị có hiệp hội ngành nghề riêng của mình. Viện kế toán quản trị IMA là tổ chức chuyên nghiệp dành riêng cho kế toán quản trị và quản trị tài chính. Hiện tại, tổ chức này có hơn 67.000 hội viên trên toàn thế giới. Đây là một tổ chức phi lợi nhuận, có chức năng đào tạo, huấn luyện, cấp phép hành nghề cho những cá nhân có nhu cầu.
Trình độ quản trị ngày càng được nâng cao, do đó kế toán quản trị cũng không ngừng được đổi mới. Gần đây có một số công cụ mới được nghiên cứu và đưa vào ứng dụng, tuy nhiên các kỹ thuật, công cụ truyền thống của kế toán quản trị vẫn còn phát huy tác dụng và đang được đông đảo các doanh nghiệp áp dụng vào quá trình quản lý của mình.
Tại Việt Nam
Quá trình phát triển của kế toán quản trị đã trải qua bốn giai đoạn đáng ghi nhận:
– Giai đoạn từ 1995 trở về trước: Với cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước. Việc phân tích hoạt động kinh doanh không được xem trọng, bộ phận kế toán chỉ xử lý số liệu phát sinh để lập các báo cáo theo chế độ hiện hành mà không cần thiết lập thông tin để cung cấp cho Ban Giám Đốc doanh nghiệp. Như vậy, trong giai đoạn này, mặc dù kế toán quản trị chưa được chính thức hình thành nhưng trên thực tế đã có những biểu hiện nhất định của kế toán quản trị thể hiện ở việc thực hiện kế toán chi tiết doanh thu, chi phí, xác định kết quả kinh doanh theo từng bộ phận cùng với phương pháp hạch toán và quản lý theo định mức. Chính những biểu hiện này đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc vận dụng kế toán quản trị vào các doanh nghiệp Việt Nam.
– Giai đoạn từ 1996 đến 2005: quyết định 1141/TC/CĐKT ra đời đã thừa nhận vai trò quan trọng của kế toán quản trị vì giai đoạn này, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi một lượng thông tin thật phong phú và đa dạng mà với phương pháp và phạm vi phản ánh khiêm tốn của mình, kế toán chi tiết không thể nào đáp ứng được. Quyết định 1141/TC/CĐKT được thiết kế phục vụ cho kế toán tài chính nhưng cũng có sự gợi mở cho các doanh nghiệp có thể thực hiện kế toán quản trị thể hiện ở hệ thống chứng từ kế toán và hệ thống tài khoản kế toán. Hệ thống chứng từ kế toán đã linh động hơn, cho phép doanh nghiệp sử dụng những chứng từ mang tính chất hướng dẫn phục vụ trong nội bộ doanh nghiệp. Còn đối với hệ thống tài khoản kế toán đã xuất hiện những tài khoản loại 6 giúp ta đánh giá được tỷ trọng các khoản mục chi phí trong giá thành từ đó có hướng quản lý và kiểm soát chi phí.
– Đến tháng 01/2006, Bộ Tài chính chính thức ban hành thông tư 53/2006/TT-BTC khá đầy đủ và chi tiết về nội dung, và công tác tổ chức thực hiện kế toán quản trị trong doanh nghiệp, tạo nên một sự thống nhất về nội dung cũng như phương pháp thực hiện kế toán quản trị phù hợp với điều kiện cụ thể của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngày nay, Kế toán quản trị được coi như là một bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống quản trị doanh nghiệp hiện đại. Cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, hệ thống kế toán quản trị đã không ngừng hoàn thiện, phát triển trở thành một công cụ đắc lực hỗ trợ cho nhà quản trị trong việc ra quyết định.
2.2.2. Khái niệm kế toán quản trị
Theo Luật kế toán Việt Nam, Kế toán quản trị là “việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”
Theo định nghĩa của Viện kế toán viên quản trị Hoa Kỳ thì Kế toán quản trị là “quá trình nhận diện, đo lường, phân tích, diễn giải và truyền đạt thông tin trong quá trình thực hiện các mục đích của tổ chức. Kế toán quản trị là một bộ phận thống nhất trong quá trình quản lý, và nhân viên kế toán quản trị là những đối tác chiến lược quan trọng trong đội ngũ quản lý của tổ chức”.
– Nhận diện – là sự ghi nhận và đánh giá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhằm có hành động kế toán thích hợp.
– Đo lường – là sự định lượng, gồm cả ước tính, các nghiệp vụ kinh tế đã xảy ra hoặc dự báo các sự kiện kinh tế có thể xảy ra.
– Phân tích – là sự xác định nguyên nhân của các kết quả trên báo cáo và mối quan hệ của các nguyên nhân đó với các sự kiện kinh tế.
– Diễn giải – là sự liên kết các số liệu kế toán hay số liệu kế hoạch nhằm trình bày thông tin một cách hợp lý, đồng thời đưa ra các kết luận rút ra từ các số liệu đó.
– Truyền đạt – Là sự báo cáo các thông tin thích hợp cho nhà quản trị và những người khác trong tổ chức.
2.2.3. Vai trò của kế toán quản trị
Ngày nay, vai trò của kế toán quản trị rất khác so với thập niên trước. Trước đây, nhân viên kế toán quản trị làm việc trong một đội ngũ gián tiếp hoàn toàn tách rời với các nhà quản trị mà họ cung cấp thông tin và các báo cáo. Ngày nay, nhân viên kế toán quản trị có vai trò như những nhà tư vấn nội bộ doanh nghiệp, cũng làm việc trong các nhóm đa chức năng, cận kề với các nhà quản trị ở tất cả các lĩnh vực của tổ chức. Thay vì tách rời nhân viên kế toán quản trị trong phòng kế toán, ngày nay các công ty thường bố trí họ trong các bộ phận hoạt động kinh doanh để cùng với các nhà quản lý khác ra quyết định và giải quyết các vấn đề kinh doanh.
2.2.4. Mục tiêu của kế toán quản trị
– Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định và lập kế hoạch, tham gia một cách tích cực, với vai trò là một thành phần của đội ngũ quản lý, vào các quá trình ra quyết định và lập kế hoạch..
– Hỗ trợ các nhà quản trị trong việc định hướng và kiểm soát các mặt hoạt động kinh doanh.
– Thúc đẩy các nhà quản trị và nhân viên nhắm vào các mục đích của tổ chức.
– Đo lường kết quả của các mặt hoạt động, các đơn vị, các nhà quản trị và nhân viên trong tổ chức.
– Đánh giá vị trí cạnh tranh của tổ chức, làm việc cùng với các nhà quản trị để đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài của tổ chức trong ngành.
Ngày nay, thông tin phân tích của kế toán quản trị được xem là rất quan trọng cho quá trình quản lý doanh nghiệp đến nỗi các nhân viên kế toán quản trị trở thành thành viên của đội ngũ quản lý trong doanh nghiệp. Họ không còn chỉ là những người cung cấp thông tin mà đã có một vai trò tích cực trong cả việc ra các quyết định chiến lược cũng như các quyết định hàng ngày của doanh nghiệp.
2.3 Những điểm giống và khác nhau của kế toán tài chính và kế toán quản trị
Hình 4
Hình 5
2.3.1. Điểm khác nhau
– Đối tượng sử dụng thông tin khác nhau: Đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị là những nhà quản trị bên trong doanh nghiệp, còn đối tượng mà kế toán tài chính cung cấp thông tin chủ yếu là những người bên ngoài doanh nghiệp, không tham gia vào công tác quản trị doanh nghiệp.
– Đặc điểm thông tin: Thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt trọng tâm cho tương lai, phần lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phương án, đề án dự trù cho một sự kiện hoặc quá trình chưa xảy ra nên thông tin chủ yếu hướng về tương lai. Còn thông tin của kế toán tài chính chủ yếu phản ánh những nghiệp vụ kinh tế đã xảy ra, phải tuân thủ các nguyên tắc của kế toán, có tính phản ánh khách quan sự kiện kinh tế đã xảy ra, phải có độ chính xác gần như tuyệt đối. Thông tin kế toán tài chính chủ yếu được biểu diễn dưới hình thái giá trị, còn thông tin kế toán quản trị được biểu diễn cả dưới hình thái giá trị lẫn hình thái vật chất.
– Phạm vi báo cáo: Báo cáo của kế toán tài chính phản ánh tình hình của doanh nghiệp nói chung, còn báo của kế toán quản trị đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp; Báo cáo của kế toán tài chính theo biểu mẫu luật quy định gồm Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Báo cáo của kế toán quản trị là các báo cáo thực hiện của từng bộ phận, từng khâu công việc trong doanh nghiệp.
– Kỳ báo cáo: Kỳ báo cáo của kế toán quản trị thường xuyên theo nhu cầu của nhà quản trị; báo cáo của kế toán tài chính được soạn theo định kỳ, thường là năm.
– Quan hệ với các ngành khác: Dù thông tin của kế toán quản trị là phục vụ cho chức năng ra quyết định của nhà quản trị, và thường không có sẵn nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán, kế toán quản trị còn phải kết hợp với nhiều ngành khác nhau như thống kê, kinh tế học, quản lý để tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin thành dạng có thể sử dụng được.
– Kế toán quản trị không có tính pháp lệnh, còn kế toán tài chính có tính pháp lệnh: hệ thống sổ sách, báo cáo của kế toán tài chính phải lập theo chế độ thống nhất; trái lại, sổ sách, báo cáo của kế toán quản trị là riêng biệt, hoàn toàn tùy thuộc vào cách thiết kế của nhà quản trị từng doanh nghiệp.
2.3.2. Điểm giống nhau
– Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều đề cập đến các sự kiện kinh tế, và đều quan tâm đến thu nhập, chi phí, tài sản, công nợ và quá trình lưu chuyển tiền của doanh nghiệp.
– Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán
– Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều biểu hiện trách nhiệm của người quản lý.
3. Nội dung của kế toán quản trị
3.1 Dự toán ngân sách:
3.1.1 Khái niệm dự toán ngân sách
Dự toán ngân sách là những tính toán, dự kiến một cách toàn diện mục tiêu kinh tế, tài chính mà doanh nghiệp cần đạt được trong kỳ hoạt động, đồng thời chỉ rõ cách thức, biện pháp huy động các nguồn lực để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đó. Dự toán ngân sách là một hệ thống bao gồm nhiều dự toán như: dự toán tiêu thụ, dự toán sản xuất, dự toán chi phí nguyên vật liệu, dự toán chi phí nhân công, dự toán chi phí sản xuất chung, dự toán chi phí bán hàng, dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp, dự toán giá vốn hàng bán, dự toán vốn đầu tư, dự toán tiền, dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, dự toán bảng cân đối kế toán. Dự toán ngân sách là cơ sở để đánh giá thành quả hoạt động của từng bộ phận, từ đó xác định trách nhiệm của từng bộ phận nhằm phục vụ tốt cho quá trình tổ chức và hoạch định.
3.1.2 Phân loại dự toán ngân sách
Dự toán là công cụ của nhà quản lý, chính vì thế đòi hỏi nhà quản lý phải am hiểu các loại dự toán để thích ứng với từng nhu cầu riêng lẻ và từng hoàn cảnh cụ thể của từng tổ chức trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Tùy theo cách thức phân loại sẽ có các loại dự toán ngân sách sau đây:
+ Phân loại theo thời gian
– Dự toán ngân sách ngắn hạn
– Dự toán ngân sách dài hạn
+ Phân loại theo chức năng
– Dự toán hoạt động
– Dự toán tài chính
+ Phân loại theo phương pháp lập
– Dự toán ngân sách linh hoạt
– Dự toán ngân sách cố định
+ Phân loại theo mức độ phân tích
– Dự toán từ gốc
– Dự toán cuốn chiếu
3.2. Kế toán các trung tâm trách nhiệm:
Kế toán trách nhiệm là hệ thống thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin có thể kiểm soát theo phạm vi trách nhiệm của từng nhà quản trị nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức.
Gắn với kế toán trách nhiệm là các trung tâm trách nhiệm. Trung tâm trách nhiệm là một bộ phận hay một phòng ban chức năng mà kết quả của nó được gắn trách nhiệm trực tiếp của một nhà quản lý cụ thể. Có bốn loại trung tâm trách nhiệm, bao gồm: trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư.
3.3 Hệ thống kế toán chi phí
Chi phí có thể hiểu là giá trị của các nguồn lực chi ra tiêu dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức để đạt được một mục đích nào đó. Bản chất của chi phí là phải mất đi để đổi lấy một kết quả, kết quả có thể dưới dạng vật chất như sản phẩm, tiền, nhà xưởng.. hoặc không có dạng vật chất như kiến thức, dịch vụ được phục vụ.
Tuy nhiên, mục đích của kế toán quản trị trong lĩnh vực chi phí là nhằm cung cấp thông tin thích hợp, hữu ích và kịp thời cho việc ra quyết định kinh doanh của nhà quản trị. Vì thế, đối với kế toán quản trị, chi phí có thể là những phí tổn thực tế phát sinh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp, chi phí cũng có thể là những phí tổn ước tính để thực hiện một dự án, hoặc là những lợi nhuận bị mất đi do lựa chọn phương án, hy sinh cơ hội kinh doanh. Do đó, việc phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức khác nhau nhằm đáp ứng mục tiêu quản lý khác nhau là một yêu cầu cần thiết của kế toán chi phí.
3.4. Thiết lập thông tin kế toán quản trị cho việc ra quyết định
Phân tích mối quan hệ giữa chi phí – khối lượng – lợi nhuận là xem xét mối quan hệ nội tại của các nhân tố: giá bán, sản lượng, chi phí khả biến, chi phí bất biến và kết cấu mặt hàng, đồng thời xem xét sự ảnh hưởng của các nhân tố đó đến lợi nhuận của công ty. Phân tích mối quan hệ giữa chi phí – khối lượng – lợi nhuận có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khai thác khả năng tiềm tàng của công ty, là cơ sở để đưa ra các quyết định như: chọn dây chuyền sản xuất, định giá sản phẩm, chiến lược bán hàng…
Phân tích thông tin kế toán quản trị để ra các quyết định đầu tư ngắn hạn, dài hạn. Quá trình ra quyết định của doanh nghiệp là việc lựa chọn từ nhiều phương án khác nhau, trong đó mỗi phương án được xem xét bao gồm rất nhiều thông tin của kế toán nhất là thông tin về chi phí đầu tư nhằm đạt được các lợi ích kinh tế cao nhất. Các nhà quản trị doanh nghiệp thường phải đứng trước sự lựa chọn nhiều phương án kinh doanh khác nhau. Mỗi phương án hành động là một tình huống khác nhau, có số loại, số lượng, khoản mục chi phí và thu nhập khác nhau, chúng chỉ có chung một đặc điểm là đều gắn nhiều vào các thông tin của kế toán, do đó đòi hỏi các nhà quản trị phải xem xét, cân nhắc để ra quyết định đúng đắn nhất. Và để đảm bảo ra quyết định đúng đắn, nhà quản trị cần phải có công cụ thích hợp giúp họ phân biệt được thông tin thích hợp với những thông tin không thích hợp, thông tin nào không thích hợp cần được loại bỏ ra khỏi cơ cấu thông tin cần xem xét và chỉ có những thông tin cần thiết mới thích hợp trong các quyết định kinh doanh.
3.5. Nội dung của kế toán quản trị theo thông tư số 53/2006/TT-BTC
Để cụ thể hóa công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp của Việt Nam ngày 12/06/2006, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 53/2006/TT-BTC hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp tổ chức tốt công tác kế toán.
Thông tư hướng dẫn một số nội dung cơ bản của kế toán quản trị áp dụng trong doanh nghiệp bao gồm:
3.5.1. Kế toán quản trị chi phí và giá thành sản phẩm
– Kế toán quản trị chi phí: căn cứ vào đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý để tổ chức tập hợp chi phí theo từng trung tâm phát sinh chi phí và xác định các loại chi phí của doanh nghiệp.
Để phục vụ cho kế toán tài chính, chi phí sản xuất kinh doanh được phân loại theo các tiêu thức:
+ Theo nội dung kinh tế chi phí được phân chia thành 2 loại: chi phí sản xuất (chi phí hình thành nên giá trị sản phẩm sản xuất), chi phí ngoài sản xuất (chi phí không làm tăng giá trị sản phẩm sản xuất nhưng cần thiết để hoàn thành quá trình sản xuất).
+ Theo mối quan hệ giữa chi phí với các khoản mục trên báo cáo tài chính, chi phí được chia ra: chi phí thời kỳ (phát sinh theo thời gian), chi phí sản phẩm (chi phí cấu thành nên giá trị đơn vị sản phẩm)
Để phục vụ cho kế toán quản trị, chi phí sản xuất, kinh doanh được phân loại theo các tiêu thức sau:
+ Theo mối quan hệ với việc lập kế hoạch và kiểm tra, chi phí được chia ra: chi phí khả biến, chi phí bất biến, chi phí hỗn hợp.
+ Theo tính chất chi phí, chi phí được chia ra: chi phí trực tiếp (chi phí cấu thành nên sản phẩm), chi phí gián tiếp (chi phí liên quan đến nhiều sản phẩm), chi phí kiểm soát được, chi phí không kiểm soát được.
+ Theo yêu cầu sử dụng chi phí trong việc lựa chọn dự án đầu tư, chi phí của dự án được chia ra: chi phí thích hợp, chi phí chênh lệch, chi phí cơ hội, chi phí chìm.
– Kế toán quản trị giá thành sản phẩm: Tùy theo đặc điểm của sản phẩm hoặc mối quan hệ giữa đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm để doanh nghiệp lựa chọn một phương pháp tính giá thành sản phẩm. Các phương pháp chủ yếu: tính giá thành theo công việc; tính giá thành theo quá trình sản xuất; tính giá thành theo định mức; theo phương pháp hệ số; phương pháp loại trừ chi phí theo các sản phẩm phụ. Đối tượng tính giá thành có thể là một chi tiết thành phẩm, thành phẩm, nhóm thành phẩm, công việc cụ thể hoặc giá thành bộ phận lĩnh vực. Kỳ tính giá thành thông thường là theo tháng, quý hoặc năm tùy vào loại hình sản xuất sản phẩm.
3.5.2 Kế toán quản trị bán hàng và kết quả kinh doanh
Doanh nghiệp xác định giá bán sản phẩm theo nguyên tắc giá bán đủ bù đắp chi phí và đạt được lợi nhuận mong muốn.
Doanh nghiệp cần xây dựng mô hình tài khoản, sổ kế toán, báo cáo bán hàng và kết quả bán hàng một cách liên hoàn và linh hoạt phù hợp với yêu cầu quản lý.
3.5.3 Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận
Mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận là mối quan hệ giữa các nhân tố giá bán, khối lượng, kết cấu hàng bán và sự tác động của các nhân tố này đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần phân tích mối quan hệ này thông qua hệ thống chỉ tiêu phân tích gồm: lãi tính trên biến phí đơn vị, tổng lãi tính trên biến phí, tỷ suất lãi tính trên biến phí, kết cấu chi phí, đòn bẩy kinh tế, điểm hòa vốn, ….
Việc phân tích mối quan hệ này giúp doanh nghiệp đưa ra được các quyết định trong sản xuất, kinh doanh nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
3.5.4 Lựa chọn thông tin thích hợp cho việc ra quyết định
Ra quyết định là chức năng cơ bản của nhà quản trị doanh nghiệp. Quyết định phổ biến ở doanh nghiệp gồm: quyết định ngắn hạn và quyết định dài hạn.
Quyết định ngắn hạn là những quyết định kinh doanh mà thời gian hiệu lực, thời gian ảnh hưởng và thực thi thường chỉ liên quan đến một thời kỳ hoặc dưới một năm. Xét về vốn đầu tư thì quyết định ngắn hạn là các quyết định không đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Để lựa chọn thông tin thích hợp cho việc ra quyết định ngắn hạn, kế toán quản trị cần thực hiện các bước: Thu thập thông tin Loại bỏ thông tin không thích hợp Xác định các thông tin thích hợp Ra quyết định.
Quyết định đầu tư dài hạn thường là quyết định đầu tư tài sản mới hay tiếp tục sử dụng tài sản cũ; mở rộng quy mô sản xuất; thuê hay mua TSCĐ; lựa chọn các thiết bị khác trong thời gian thích hợp, …Để cung cấp thông tin cho việc ra quyết định đầu tư, kế toán quản trị cần thực hiện các bước: Phân loại quyết định (quyết định có tính sàng lọc; quyết định có tính ưu tiên) Thu thập thông tin và phân loại thông tin phù hợp với loại quyết định Quyết định lựa chọn phương án sau khi đã có thông tin thích hợp.
3.5.5 Lập dự toán ngân sách sản xuất, kinh doanh
Hệ thống chỉ tiêu dự toán ngân sách sản xuất, kinh doanh được xây dựng riêng cho từng quá trình, như; quá trình mua hàng, quá trình sản xuất, quá trình tiêu thụ, …
Dự toán ngân sách sản xuất, kinh doanh được lập cho cả năm và chia ra các quý, các tháng trong năm.
3.5.6 Kế toán quản trị TSCĐ
Doanh nghiệp cần phải mở sổ kế toán chi tiết và tổng hợp để phản ánh được các chỉ tiêu về giá trị hiện vật của quá trình quản lý, sử dụng và phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ của toàn đơn vị, các bộ phận, các đối tượng TSCĐ chủ yếu, đồng thời cung cấp nhu cầu sử dụng TSCĐ của từng bộ phận cũng như toàn doanh nghiệp một cách cụ thể để giúp lãnh đạo doanh nghiệp có cơ sở quyết định các phương án khai thác năng lực TSCĐ hiện có và đầu tư mới thích hợp, hiệu quả.
3.5.7 Kế toán quản trị hàng tồn kho
Doanh nghiệp cần lập danh điểm vật tư và tổ chức kế toán quản trị về số hiện có, số đã sử dụng, đã bán cả về số lượng và giá trị phù hợp danh điểm vật tư, sản phẩm, hàng hóa đã lập theo yêu cầu quản lý nội bộ; Doanh nghiệp cần xác định phương pháp tính giá hàng tồn kho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như lập kế hoạch cho tương lai; doanh nghiệp lập định mức chi phí nguyên liệu, vật liệu cho từng công việc sản phẩm và lập định mức dự trữ cho từng danh điểm hàng tồn kho.
3.5.8. Kế toán quản trị lao động và tiền lương
– Lập định mức giờ công và đơn giá tiền lương cho các bậc thợ, nhân viên của doanh nghiệp;
– Lập định mức chi phí nhân công tiêu hao cho từng giai đoạn công việc, sản phẩm, dịch vụ, …
– Xác định và kiểm soát được thời gian làm việc của từng lao động;
– Tính toán đầy đủ và phân bổ chi phí nhân công vào các giá phí, trung tâm chi phí và giá thành hợp lý, phù hợp.
3.5.9 Kế toán quản trị các khoản nợ
Cung cấp thông tin về chủ nợ, loại nợ theo kỳ hạn, thời hạn thanh toán và chất lượng của khoản nợ vào bất kỳ lúc nào khi nhà quản lý yêu cầu.
4. Một số phương pháp kỹ thuật kế toán quản trị
4.1. Phương pháp phân loại
Nội dung của phương pháp này là phân chia các đối tượng nghiên cứu thành các loại, các chi tiết theo từng tiêu thức nhất định để quan sát đối tượng trong mối quan hệ với những loại, những chi tiết hợp thành đối tượng.
4.2. Phương pháp so sánh
Chọn các chỉ tiêu có cùng điều kiện so sánh hoặc có quan hệ kinh tế để thiết lập quan hệ so sánh với nhau. Từ đó, quan sát biến động nội dung, kết cấu, mối tương quan giữa các đối tượng.
4.3. Phương pháp phân tích mức ảnh hưởng các nhân tố
Nội dung chính của phương pháp này là xác định, lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của một chỉ tiêu. Xác định nội dung kinh tế, tài chính của chỉ tiêu và thể hiện chỉ tiêu trong mối quan hệ với các nhân tố cấu thành cần quan sát theo thứ tự nhân tố chất đến nhân tố lượng, nhân tố quan trọng trước nhân tố thứ yếu sau, mối quan hệ cấu thành này có thể tồn tại dưới nhiều hình thức.
4.4. Phương pháp đồ thị – biểu đồ
Nội dung chính của phương pháp này căn cứ vào mối quan hệ giữa các đối tượng thiết lập phương trình toán học biểu hiện mối quan hệ giữa chúng. Từ đó, thiết lập nên đồ thị hay biểu đồ thể hiện các đối tượng và cũng chính từ đồ thị, biểu đồ này nhận định, quan sát sự tồn tại, đặc điểm đối tượng.
4.5. Phương pháp chỉ số tài chính
Nội dung cơ bản của phương pháp này là căn cứ vào mối quan hệ có ý nghĩa giữa các yếu tố tài chính thiết lập nên các chỉ số tài chính có nội dung, kết cấu những tài chính đặc trưng. Từ đó, quan sát nội dung, kết cấu những chỉ số tài chính đặc trưng này để tìm hiểu các dấu hiệu tài chính.
4.6. Phương pháp định lượng
Phương pháp này dựa trên nền tảng kinh tế lượng, vận dụng các kỹ thuật kinh tế lượng để lượng hóa thông tin. Từ đó căn cứ vào đặc điểm thông tin kết hợp với toán học để quan sát các hiện tượng kinh tế tài chính.
4.7. Phương pháp phân tích thông tin thích hợp
Phương pháp này là một quy trình chọn lọc, đơn giản hóa thông tin các phương án để cung cấp thông tin ngắn gọn, phù hợp, nhanh chóng và có trọng tâm cho chọn lựa một phương án kinh doanh.
4.8. Phương pháp bảng cân đối thành quả (Balanced Scorecard)
Phương pháp này dựa vào các yếu tố giữ vai trò quan trọng và quyết định đến kết quả, hiệu quả, sự ổn định, phát triển doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn để thiết kế nên một bảng cân đối giữa các yếu tố này. Từ đó, đánh giá tình hình hiện thực, tiềm năng và triển vọng hoạt động của doanh nghiệp.
4.9. Phương pháp cân đối Chi phí – Lợi ích
Nội dung phương pháp này là thiết lập mối liên hệ giữa chí phí với lợi ích kinh tế mà nó đem lại. Chi phí được xem hữu ích khi nó tạo ra một giá trị hữu dụng tương ứng với một giá trị gia tăng hoặc nguồn thu nhập, tiềm năng kinh tế lớn hơn chi phí.
4.10. Phương pháp phân tích quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận
Là phương pháp thiết lập những chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận theo mô hình ứng xử của chi phí. Từ đó, quan sát các chỉ tiêu này hoặc vận dụng các chỉ tiêu này để quan sát tình hình chi phí, thu nhập, lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh.
4.11. Phương pháp tính thời giá tiền tệ
Phương pháp này được xây dựng trên quan điểm đồng tiền luôn tạo ra khả năng sinh lời, một đồng tiền hôm nay có giá trị hơn một đồng tiền tương lai. Từ đó, khi tính toán các thông tin liên quan đến dòng tiền phát sinh ở nhiều năm, nhất là khi đề cập đến dòng tiền liên quan đến vốn đầu tư, chi phí, thu nhập liên quan đến dự án đầu tư dài hạn cần phải chuyển đổi dòng tiền về cùng một thời kỳ hiện tại hoặc tương lai.
4.12. Các mô hình quản trị kinh tế – tài chính
Nội dung chính của phương pháp này là dựa trên mô hình quản trị kinh tế, tài chính để quan sát các vấn đề kinh tế, tài chính hoạt động của doanh nghiệp.
4.12.1 Mô hình DUPONT
Mô hình này được thiết lập trên cơ sở xem xét tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (hoặc vốn chủ sở hữu) trong mối quan hệ với các yếu tố tài chính cơ bản của hoạt động kinh doanh như tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, vòng quay tài sản, cơ cấu vốn chủ sở hữu và các yếu tố cấu thành nên các chỉ tiêu lợi nhuận, doanh thu, chi phí, tài sản. Từ đó, nghiệp vụ kế toán quản trị hướng đến xây dựng thông tin tỷ suất lợi nhuận trong mối quan hệ với các chi tiết của mô hình Dupont và chính những thông tin này giúp quan sát tình hình tài chính trong hoạt động doanh nghiệp.
4.12.2 Mô hình quản trị hàng tồn kho kịp thời (JIT – Just In Time)
Mô hình này dựa trên lý thuyết quản trị hàng tồn kho kịp thời. Lý thuyết này căn cứ vào quan điểm thị trường quyết định các hoạt động đầu tư, cung ứng, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ; tính hiệu quả của đầu tư, cung ứng, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ được quyết định bởi sự phù hợp, kịp thời, thích ứng của chúng với chuyển biến thị trường và sự tồn kho xuất hiện chính là biểu hiện cho sự phản ứng không kịp thời, vi phạm quan hệ của hệ thống tổ chức quản trị – sản xuất với tình hình biến động thị trường.
4.12.3 Mô hình quản trị chất lượng tổng thể: (TQM – Total Quality Management)
Mô hình này dựa trên quan điểm chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng, liên quan tổng hợp của tất cả các yếu tố gắn liền với quy trình sản xuất kinh doanh và mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm hướng đến trạng thái hoàn hảo tuyệt đối – tỷ lệ sản phẩm sai hỏng bằng không. Do đó, quản trị chất lượng sản phẩm được xem xét toàn diện trước, trong, sau quy trình hoạt động kinh doanh và luôn hướng đến mức hoàn hảo tỷ lệ sai hỏng không tồn tại. Từ đó, các nghiệp vụ kế toán quản trị theo lý thuyết quản trị chất lượng toàn diện hướng đến thiết lập hệ thống thông tin quản trị, kiểm soát toàn diện tất cả các thành viên, các yếu tố liên quan đến cả quy trình sản xuất kinh doanh.
4.12.4 Mô hình quản trị chi phí theo mục tiêu (Target costing)
Mô hình này dựa trên quan điểm hoạt động, cũng như chi phí cần phải được quản lý kiểm soát theo mục tiêu, đó chính là những chi phí, mức giảm chi phí được hoạch định kết hợp giữa các mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn. Từ đó, các nghiệp vụ kế toán quản trị theo mô hình quản trị chi phí theo mục tiêu hướng đến đo lường toàn diện mục tiêu, mức giảm chi phí trên toàn bộ chuỗi giá trị trong định hướng kết hợp chiến lược dài hạn và kế hoạch ngắn hạn của hoạt động; Chi phí cần được thiết kế, dự toán một cách chi tiết cho cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn và cũng như tình hình thực tế, sai lệch phát sinh so với mục tiêu.
4.12.5 Mô hình quản trị chi phí theo hướng cải tiến liên tục chi phí (Kaizen costing)
Mô hình này dựa trên lý thuyết quản trị chi phí phải đặt trong sự cải tiến liên tục chi phí. Theo lý thuyết quản trị này cho rằng một sự cải tiến nhỏ trong sản xuất sẽ đem lại một sự gia tăng rất lớn về giá trị, lợi ích. Từ đó, các nghiệp vụ kế toán quản trị theo mô hình quản trị chi phí Kaizen gắn kết mật thiết với xây dựng hệ thống hoạch định lợi nhuận, phân bổ lợi nhuận hàng năm, lợi nhuận mục tiêu cho từng phân xưởng, bộ phận sản xuất nhằm xác định mức chi phí cơ bản – chi phí thực tế của năm trước, mức giảm chi phí năm nay so với năm trước, tỷ lệ giảm chi phí cơ bản, mức chi phí mục tiêu. Những chỉ tiêu này phải được đo lường, phân tích trong mối liên hệ bên trong và bên ngoài sản xuất liên tục nhằm đáp ứng định mức chi phí và cải tiến, cắt bỏ liên tục những chi phí không hữu ích trong sản xuất.
4.12.6 Mô hình quản trị chi phí Taguchi
Mô hình này dựa trên quan điểm của Taguchi, xem xét tình hình và chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở quan sát môi trường sản xuất kinh doanh. Theo ông, để đạt được mục đích giảm chi phí cần đạt được một trong ba mục tiêu sau:
– Giảm những biến động của quy trình sản xuất kinh doanh bằng cách nhận định các yếu tố có thể gây nên biến động quy trình sản xuất;
– Điều chỉnh phương tiện sản xuất kinh doanh sao cho tiến đến gần mục tiêu mong đợi;
– Hướng đến giảm biến động quy trình sản xuất cùng các yếu tố gây nên biến
động và điều chỉnh những phương tiện sản xuất về mục tiêu của kinh doanh.
Từ đó, những nghiệp vụ kế toán quản trị theo mô hình Taguchi hướng đến đo lường những biến động của môi trường sản xuất kinh doanh để tính toán, kiểm soát, hạn chế tổn thất và nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh.
4.12.7 Mô hình quản trị chi phí trên cơ sở hoạt động (ABCM – Activity Based Cost Management)
Mô hình quản trị chi phí này dựa trên cơ sở quản trị chi phí theo nguồn gốc phát sinh. Trên cơ sở này, chi phí không chia tách để quản trị theo từng chức năng, từng bộ phận như chi phí sản xuất, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp mà chi phí được chia tách, quản trị theo từng đối tượng, nguyên nhân gây ra chi phí. Từ đó, các nghiệp vụ kế toán quản trị cần phải tập hợp, phân bổ chi phí theo nguồn gốc phát sinh. Nguồn gốc phát sinh chi phí là mục tiêu đo lường và cũng là căn cứ tập hợp, phân bổ chi phí.
5. Tổ chức công tác kế toán quản trị trong doanh nghiệp
5.1 Nội dung tổ chức kế toán quản trị trong các doanh nghiệp
– Tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị.
Vận dụng các nguyên tắc, phương pháp về lập, luân chuyển, quản lý và sử dụng chứng từ kế toán quản trị phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Có thể cụ thể hóa và bổ sung các nội dung cần thiết của từng mẫu chứng từ kế toán đã được quy định, hoặc lập chứng từ riêng để phục vụ cho việc thu thập thông tin quản trị nội bộ doanh nghiệp.
– Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán quản trị
Đế đáp ứng cung cấp đầy đủ thông tin cho quản trị doanh nghiệp, kế toán quản trị có thể chi tiết hóa (cấp 2, cấp 3, cấp 4, ….) hệ thống tài khoản kế toán tài chính; hoặc có thể thiết kế hệ thống tài khoản phù hợp với kế hoạch, dự toán đã lập và yêu cầu cung cấp thông tin kế toán quản trị cho các cấp quản trị khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp.
– Tổ chức hệ thống sổ kế toán quản trị
Dựa vào hệ thống sổ kế toán do Bộ tài chính đã ban hành, kế toán quản trị có thể bổ sung các chỉ tiêu để phù hợp với yêu cầu cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp, kế toán quản trị có thể thiết kế bộ sổ kế toán mới cho phù hợp hơn với yêu cầu quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách chi tiết đáp ứng nhu cầu thông tin đầy đủ, chính xác và toàn diện.
– Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán quản trị
Hệ thống báo cáo kế toán quản trị chính là sản phẩm của chu trình kế toán quản trị, việc lập và phân tích hệ thống báo cáo kế toán quản trị là một khâu quan trọng, thiết yếu của quá trình tổ chức công tác kế toán quản trị.
Hệ thống báo cáo kế toán quản trị thường bao gồm hai loại báo cáo sau:
+ Báo cáo tình hình thực hiện;
+ Báo cáo phân tích.
Ngoài ra kế toán quản trị còn lập các loại báo cáo khác nhằm phục vụ kịp thời các yêu cầu quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh từng giai đoạn cụ thể của các cấp quản trị khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp.
5.2 Tổ chức bộ máy kế toán quản trị trong doanh nghiệp
– Việc tổ chức bộ máy kế toán quản trị trong doanh nghiệp phải phù hợp với đặc điểm hoạt động, quy mô đầu tư và địa bàn tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, với mức độ phân cấp quản lý kinh tế – tài chính của doanh nghiệp.
– Tổ chức bộ máy kế toán quản trị phải gọn nhẹ, khoa học, hợp lý và hiệu quả cao trong việc cung cấp thông tin cho quản lý doanh nghiệp.
– Việc tổ chức bộ máy kế toán quản trị của doanh nghiệp phải phù hợp với quy mô, trình độ cán bộ, đặc điểm quản lý và phương tiện kỹ thuật hiện có của doanh nghiệp.
– Có thể lựa chọn một trong ba hình thức tổ chức bộ máy kế toán quản trị: Hình thức kết hợp giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính theo từng phần hành kế toán; Hình thức tách biệt – bộ phận kế toán quản trị riêng biệt với bộ phận kế toán tài chính; Hoặc là hình thức hỗn hợp.
The post Cơ sở lý luận chung về kế toán quản trị appeared first on Luận văn 1080.
No comments:
Post a Comment